Đ
ức trẻ (món cá kem, xúc xích cay, rượu, muối, và thịt mỡ). Sau này, khi
khám ch
ữa tư nhân, ông bắt đầu quy định chế độ ăn cho bệnh nhân nhức
n
ửa đầu của mình và thành công tốt đẹp.
M
ột bệnh nhân đau nửa đầu phản hồi rằng bệnh lupus vulgaris (lao
da) c
ủa anh ấy cũng đã khỏi nhờ theo chế độ ăn uống của Gerson. Gerson
b
ắt đầu sử dụng chế độ ăn uống để chữa trị cho các bệnh nhân lupus
khác. Ông th
ậm chí còn bắt đầu thành công với việc điều trị bệnh lao.
Bác sĩ ph
ẫu thuật phổi nổi tiếng Ferdinand Sauerbruch nghe nói về những
thành công c
ủa Gerson và đã mời ông tiến hành thử nghiệm lâm sàng liệu
pháp c
ủa ông tại khu lao Munich của Sauerbruch.
Ch
ế độ ăn của Gerson được áp dụng cho 450 bệnh nhân lao. Tại thời
đi
ểm đó, bệnh lao được coi là “nan y”. Báo cáo sau khi thử nghiệm là 446
b
ệnh nhân hoàn toàn hồi phục. Đối với những ai thích tỷ lệ phần trăm thì
đó là t
ỷ lệ chữa khỏi 99,1% trên bệnh nhân giai đoạn cuối!
Ch
ế độ ăn của Gerson nhanh chóng trở nên nổi tiếng ở châu Âu và
đ
ược nhiều nơi xem như liệu pháp điều trị tiêu chuẩn đối với các rối
lo
ạn hệ miễn dịch, bao gồm cả bệnh lao.
Năm 1928, Gerson nh
ận được điện thoại từ một người phụ nữ được
cho bi
ết là bị ung thư ống dẫn mật. Theo Gerson, bà nài nỉ ông chữa cho
bà b
ằng liệu pháp của ông, chấp nhận ông không biết gì về ung thư và
không th
ể dự đoán trước kết quả điều trị. Gerson cho biết bà hoàn toàn
ph
ục hồi sau điều trị và cả hai người bạn của bà cũng vậy. Tất nhiên là
v
ới mọi thành công điều trị ung thư, sẽ xuất hiện “những lính đánh thuê”
c
ủa mafia y tế cố vu khống và công kích những người điều trị và Gerson
cũng không là ngo
ại lệ.
Ông b
ắt đầu thử nghiệm lâm sàng liệu pháp của ông với nỗ lực làm
câm h
ọng những chỉ trích. Ông quyết định chỉ chữa cho những bệnh nhân
đ
ược công bố “giai đoạn cuối” bằng văn bản bởi ít nhất là hai chuyên gia
đ
ể không có nghi ngờ về bệnh hoặc chẩn đoán. Vào ngày 01 tháng 4 năm
1933, ch
ỉ sáu tuần trước khi ông giới thiệu kết quả nghiên cứu, Adolf
Hitler đã ti
ến hành bắt bớ người Do Thái và tống họ vào các trại tập
trung. Gerson may m
ắn thoát được và rời Đức mãi mãi, để lại phía sau
các k
ết quả nghiên cứu của ông.
Là m
ột người Đức gốc Do Thái, Gerson buộc phải cùng gia đình rời
n
ước Đức năm 1933, đầu tiên là đến Vienna, tiếp đến Ville d’Avray (gần
Paris) và London. Ông đ
ịnh cư ở New York năm 1936. Tại đây, Gerson