gây ra các bi
ến đổi và đột biến gen. Thực tế các độc tố nấm có thể gây
ra ung th
ư không phải cho tất cả mọi người.
Sách giáo khoa v
ề ung thư lâm sàng của Hiệp hội Ung thư Hoa Kỳ
nêu: “Đ
ộc tố nấm là chất gây ung thư nhiễm độc gen, tiếp xúc bắt đầu ở
t
ử cung và trong sữa mẹ, tiếp nối trong suốt cuộc đời; đây là điều kiện
thu
ận lợi cho nhiễm bệnh.”
Bác sĩ Doug Kaufman đã ghi nh
ận nhiều điểm tương đồng giữa ung
th
ư và nấm. Chúng ta hãy xem một vài thực tế thú vị ông chỉ ra:
C
ả tế bào ung thư và nấm đều có thể chuyển hóa dinh dưỡng kị khí
(không có ô-xy)
C
ả tế bào ung thư và nấm đều phải có đường để tồn tại và sẽ chết
n
ếu không có đường
C
ả tế bào ung thư và nấm đều sản xuất axit lactic
C
ả tế bào ung thư và nấm đều có thể bị tác động bởi thuốc chống
n
ấm.
Trong cu
ốn sách The Germ that Causes Cancer (Mầm mống gây ung
th
ư), hoàn toàn đồng ý với bác sĩ Simoncini, Kaufman đưa ra giả thuyết
r
ằng ung thư là nhiễm nấm rễ sâu mà hệ miễn dịch của chúng ta không
nh
ận ra. Ông cũng tin rằng rất nhiều trong số thuốc kháng sinh bắt nguồn
t
ừ nấm có thể góp phần phát triển ung thư. Ông giả thuyết rằng có lẽ
nhi
ều trường hợp ung thư được chẩn đoán nhầm và thực tế là nhiễm
n
ấm. Nhiễm nấm không chỉ rất dễ lây lan, mà chúng còn liên quan chặt
ch
ẽ với ung thư bạch cầu (mọi bác sĩ chuyên ung thư đều biết). Ví dụ,
vào năm 1999, bác sĩ Meinolf Karthaus đã quan sát ba tr
ẻ em khác nhau bị
“ung th
ư bạch cầu” đột nhiên thuyên giảm sau khi tăng gấp ba liều
cocktail thu
ốc kháng nấm cho nhiễm nấm thứ cấp.
Theo bác sĩ Simoncini: “Ph
ương pháp của tôi đã chữa khỏi cho mọi
ng
ười trong 20 năm qua. Nhiều bệnh nhân của tôi đã phục hồi ung thư
hoàn toàn, ngay c
ả các trường hợp đã bị chuyên khoa ung thư trả về”.
V
ậy tỷ lệ chữa khỏi của ông là gì? Bác sĩ Simoncini cho các số liệu
th
ống kê sau đây: “Nếu là nấm nhạy cảm với sodium bicarbonate và kích
th
ước khối u dưới 3 cm, tỷ lệ sẽ vào khoảng 90%, còn trong những
tr
ường hợp giai đoạn cuối mà tình trạng sức khỏe bệnh nhân khá tốt thì
t
ỷ lệ là 50%”.