UNG THƯ - SỰ THẬT, HƯ CẤU, GIAN LẬN VÀ NHỮNG PHƯƠNG PHÁP CHỮA LÀNH KHÔNG ĐỘC HẠI - Trang 336

nhi

ều tiền hơn so với lượng bán hàng giới hạn trong nhóm nhỏ đối

t

ượng khách hàng bị loét. Vậy nên, trong năm 1967, Searle đã bắt đầu

nh

ững xét nghiệm kiểm tra an toàn cần thiết với aspartame để xin FDA

ch

ấp thuận nó là phụ gia thực phẩm. Những thử nghiệm ban đầu của

ch

ất này cho thấy nó sinh ra những lỗ và khối u cực nhỏ trong não chuột

thí nghi

ệm, chứng động kinh ở loài khỉ, và biến đổi thành các chất độc

h

ại trong cơ thể động vật, bao gồm cả formaldehyde.

Năm 1969, công ty Searle đã thuê bác sĩ Harold Waisman, nhà sinh h

ọc

t

ại Đại học Wisconsin, tiến hành kiểm tra an toàn aspartame trên bảy con

kh

ỉ sơ sinh được cho ăn aspartame trộn với sữa. Sau 300 ngày, năm trong

s

ố những con khỉ đó bị co giật động kinh mạnh và một con chết. [Bạn có

nh

ớ Flo Jo, người đã uống Cocacola cho người ăn kiêng (Diet Coke) và tử

vong vì c

ơn co giật động kinh mạnh không?] Bác sĩ Waisman mất trước

khi t

ất cả các nghiên cứu của ông được hoàn thành. Vào mùa xuân năm

1971, bác sĩ John Olney (m

ột nhà thần kinh học) đã thông báo cho Searle

r

ằng các nghiên cứu của ông cho thấy aspartame gây ra lỗ hổng trong não

c

ủa những con chuột sơ sinh. Cuối năm đó, một trong những nhà nghiên

c

ứu của Searle đã xác nhận những phát hiện của bác sĩ Olney trong một

nghiên c

ứu tương tự. Thế nhưng Searle không quan tâm… họ theo đuổi

con bò đ

ẻ ra tiền của mình!

Năm 1973, Searle n

ộp đơn xin FDA phê duyệt và nộp hơn 100 nghiên

c

ứu mà họ quả quyết là xác nhận sự an toàn của aspartame. Một trong

nh

ững nhà khoa học FDA đầu tiên xem xét các dữ liệu an toàn aspartame

đã tuyên b

ố rằng “thông tin cung cấp (bởi Searle) không đủ để cho phép

đánh giá đ

ộc tính tiềm tàng của aspartame.” Theo bác sĩ quá cố Andrian

Gross, Searle “… đã b

ỏ nhiều công sức để ngụy trang những thiếu sót

c

ủa các nghiên cứu. Như tôi đã nói, sàng lọc và chỉ trình bày với FDA

nh

ững gì họ muốn FDA biết, và họ đã làm những điều tồi tệ khác. Ví dụ,

nh

ững con vật phát triển khối u trong quá trình nghiên cứu. Vâng, họ loại

b

ỏ các khối u này khỏi những con vật đó.” Tuy nhiên, vào ngày 26 tháng 7

năm 1974, FDA ch

ấp thuận cho sử dụng hạn chế aspartame trong thực

ph

ẩm khô, lần đầu tiên công bố các dữ liệu hỗ trợ cho quyết định của

h

ọ. Dữ liệu này sau đó đã được xem xét lại bởi nhà nghiên cứu não nổi

ti

ếng John Olney của Đại học Washington ở St. Louis, người đã nộp đơn

ph

ản đối đầu tiên chống lại việc phê duyệt aspartame.

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.