UNG THƯ - SỰ THẬT, HƯ CẤU VÀ GIAN LẬN - Trang 121

l

ại những cải thiện trong cơ thể, việc đó được gọi là “liệu pháp ô-xy

hóa”.

H

ầu hết các phản ứng sinh hóa trong cơ thể là “cân bằng” thông qua

các c

ơ chế khử. Khử có nghĩa là giảm ô-xy hóa. Bất cứ khi nào một chất

b

ị “giảm” (thu electron), thì thứ khác phải bị “ô-xy hóa” (tức là mất đi

electron) đ

ể các phản ứng giữ “cân bằng”. Một ví dụ, ô-xy hóa là quá

trình gây g

ỉ kim loại (ô-xy hóa chậm) hoặc cháy (ô-xy hóa nhanh).

Có hai ch

ất tự nhiên đơn giản sử dụng trong lâm sàng đã được ghi

nh

ận trong các tài liệu y tế kể từ năm 1920 và đã được chứng minh hiệu

qu

ả trong điều trị một số bệnh nguy hiểm phổ biến nhất, gồm cả bệnh

tim, ung th

ư và AIDS. Đó là hydrogen peroxide và ô-zôn (O3), được sử

d

ụng trong chữa bệnh gọi chung là “các liệu pháp ô-xy hóa sinh học”.

Nhà nghiên c

ứu hàng đầu về các liệu pháp ô-xy hóa sinh học là bác sĩ

Charles H. Farr, ng

ười được đề cử giải Nobel Y học năm 1993 cho công

trình c

ủa mình.

Tri

ết lý đằng sau liệu pháp ô-xy hóa sinh học rất đơn giản. Nếu hệ

th

ống ô-xy của cơ thể bị yếu hoặc thiếu (do không tập thể dục, chế độ

ăn u

ống không lành mạnh, ô nhiễm môi trường, hút thuốc lá, hoặc thở

không đúng), c

ơ thể không thể loại bỏ thỏa đáng các độc tố. Các liệu

pháp ô-xy hóa sinh h

ọc được sử dụng để cung cấp cho cơ thể ô-xy dạng

tích c

ực (uống, tiêm tĩnh mạch, hoặc qua da) để loại bỏ độc tố và chống

l

ại bệnh tật.

Khi peroxide hydrogen ho

ặc ô-zôn trong cơ thể tách nhỏ thành vô số

g

ốc ô-xy hóa phụ khác nhau, chúng tiếp xúc với vi sinh vật kị khí (vi sinh

v

ật có khả năng sống không cần có không khí), cũng như các tế bào mô

thi

ếu hụt hoặc bị bệnh. Nó chỉ ô-xy hóa các tế bào này trong khi không

đ

ụng đến các tế bào khỏe mạnh nguyên vẹn. Khi cơ thể trở nên bão hòa

v

ới những hình thức đặc biệt này của ô-xy, nó đạt đến trạng thái tinh

khi

ết trong đó các vi sinh vật gây bệnh bị tiêu diệt, trong khi độc tính cơ

b

ản bị ô-xy hóa và loại bỏ. Kết quả là tạo ra một hệ miễn dịch mạnh

h

ơn và cải thiện toàn bộ đáp ứng miễn dịch.

Ô-zôn đ

ược Fridereich Schonbein phát hiện vào năm 1840. Nó là ô-xy

trong “m

ối quan hệ tay ba”, một hình thức kích hoạt ô-xy với ba nguyên

t

ử. Ban đầu, ô-zôn được sử dụng để khử trùng vết thương trong Thế

chi

ến thứ nhất. Liệu pháp ô-zôn làm tăng tốc độ chuyển hóa ô-xy và kích

thích gi

ải phóng các nguyên tử ô-xy trong máu. Trong khoảng thời gian

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.