M
ọi bằng chứng đều chỉ ra hỗn hợp trám “bạc” (thường chứa gần 50%
th
ủy ngân) là vô cùng độc hại cho cơ thể con người.
Bác sĩ quá c
ố Patrick Störtebecker, nhà văn và nhà thần kinh học nổi
ti
ếng thế giới ở Stockholm, Thụy Điển, viết trong cuốn Mercury
Poisoning from Dental Amalgam – a Hazard to Human Brain (Ng
ộ độc
th
ủy ngân do Amalgam nha khoa – Mối nguy cho não người): “Hỗn hợp
trám răng là kim lo
ại rất không ổn định, hơi thủy ngân dễ dàng thoát ra.
Đ
ường vận chuyển nguy hiểm nhất của hơi thủy ngân thoát ra từ hỗn
h
ợp nha khoa là từ màng nhầy khoang mũi trên, trực tiếp tiến vào não,
n
ơi hơi thủy ngân dễ dàng thâm nhập màng cứng (tức là hàng rào máu
não). Th
ủy ngân (hơi) có thể tác động tập trung trực tiếp mạnh hơn
nhi
ều lên tế bào não.”
B
ạn sẽ không đặt một chiếc nhiệt kế thủng vào miệng và để đó 24
gi
ờ một ngày phải không? Theo bác sĩ Michael Ziff, Giám đốc điều hành
H
ọc viện Quốc tế Y học về Miệng và Độc học (IAOMT – International
Academy of Oral Medicine and Toxicology), đó “chính xác là nh
ững gì sẽ
x
ảy ra khi một miếng trám amalgam được đặt trong miệng bạn.” Theo
Tom Warren: “Trên th
ế giới có hơn 4.000 tài liệu nghiên cứu cho thấy
th
ủy ngân là một chất có độc tính cao. Làm thế nào mà các nha sĩ lại có
th
ể quá thiếu suy nghĩ đưa một trong những chất độc nguy hiểm nhất
vào cách não chúng ta có vài cm?” (www.whale.to/a/toxic_dentistry.html)
B
ằng chứng hiện nay cho thấy vật liệu trám răng amalgam liên tục bị
phá v
ỡ và sau đó được giải phóng vào miệng. Những hạt nhỏ hợp chất
trám b
ằng thủy ngân khi đó sẽ chịu tác động bởi miệng và vi khuẩn
đ
ường ruột để tạo ra methyl thủy ngân (một dạng độc hơn của thủy
ngân so v
ới thủy ngân nguyên tố) với khu vực mục tiêu chính là tuyến
yên, tuy
ến giáp, và não. Phải rồi, chính là não! Sau khi chất trám răng
đ
ược đưa vào miệng, những thay đổi vi tế về hóa học máu đã được quan
sát th
ấy qua các bệnh mạn tính cụ thể, ví dụ như ung thư, bệnh đa xơ
c
ứng (MS), và Alzheimer. Khó khăn trong việc nhận ra “mối kết nối của
h
ỗn hợp trám” với bệnh mạn tính là các triệu chứng lâm sàng không biểu
hi
ện cho đến khi hệ miễn dịch của bệnh nhân sụp đổ, có thể là 40 hoặc
50 tu
ổi.