Nam, nhưng khốn nỗi vào tháng 10, khi tướng Taylor đang trên đường đến
Sài Gòn thì Việt Cộng phát động các đợt tấn công dữ dội vào tỉnh lỵ Phước
Thành, đốt phá các cơ sở, giết hại cả Tỉnh trưởng lẫn Phó Tỉnh trưởng và rất
nhiều binh sĩ, cán bộ, công chức; đồng thời Việt Cộng lại tấn công nhiều
quận lỵ của tỉnh Darlac và tung ra nhiều đơn vị lớn đánh phá khắp miền
Nam, công hãm các đồn bót chiến lược dọc quốc lộ số 4 và gây thiệt hại
nặng nề cho lực lượng Việt Nam Cọng Hòa. Tình hình an ninh suy sụp đó
khiến cho ông Diệm sợ hãi một cuộc tổng nổi dậy của Việt Cộng nên ông
bèn đưa ra lời tuyên bố chính thức rằng chiến tranh thật sự đã xảy ra tại
miền Nam.
Vì không còn giữ ý định chống lại việc quân đội Mỹ tham chiến tại miền
Nam nữa nên ông Diệm đã yêu cầu Mỹ đem một số “quân chiến đấu tượng
trưng” vào miền Nam và lớn tiếng kêu gọi Hoa Kỳ cùng với Việt Nam Cộng
Hòa ký một hiệp ước phòng thủ song phương [7]. Trước lời kêu gọi đó của
ông Diệm, và trước tình hình an ninh suy thoái một cách trầm trọng của
miền Nam, Bộ Tổng Tham mưu Hoa Kỳ cũng khuyến cáo Tổng thống Mỹ
nên gởi quân qua Việt Nam tham chiến. Ý kiến này được Thứ trưởng Quốc
phòng William P. Bundy ủng hộ mạnh mẽ vì theo ông Bundy, sách lược “tốc
chiến tốc thắng” có thể giúp ông Diệm nhiều may mắn hơn và có thể lật
ngược thế cờ. Nhưng vì việc quân đội Mỹ công khai tham chiến tại Việt
Nam có thể gây nhiều phức tạp trong nội bộ chính trị Hoa Kỳ cũng như có
thể gây các phản ứng quốc tế nguy hiểm, nên Tòa Bạch Ốc bề ngoài đã phải
giảm thiểu những thúc giục ồn ào tại cả Sài Gòn lẫn Hoa Thịnh Đốn, bằng
cách giả vờ lộ một số tin tức cho nhật báo New York Times, tiết lộ rằng “các
cấp lãnh đạo ở Ngũ Giác Đài cũng như Đại tướng Taylor đều tỏ ra miễn
cưỡng về việc gởi các đơn vị chiến đấu Mỹ sang Đông Nam Á”. Bài báo
này đã chận đứng được những tuyên bố quá lộ liễu của ông Diệm.
Những sự kiện trên đây cho thấy mới giữa năm 1961 mà tình hình chiến sự