Hoành Linh Đỗ Mậu
VIỆT NAM Máu Lửa Quê Hương Tôi
Chương 14
KỲ THỊ TÔN GIÁO
Một trong những thể hiện độc đáo nhất của văn hoá nước ta là đời sống tín
ngưỡng rất nồng nàn và rất lâu đời của dân tộc. Cứ nhìn số đền chùa đình
miếu trong mỗi làng mỗi tỉnh, và sau này, số nhà thờ trong mỗi đơn vị hành
chính địa phương thì đã có thể đo lường được sinh hoạt tín ngưỡng của dân
ta mạnh mẽ biết chừng nào. Cứ đem số lượng những ngày cúng kỵ riêng tư
của từng gia đình và những lần tế lễ chung của toàn dân tộc thì biết cái bản
chất hướng nội của người nước ta sâu sắc biết là bao nhiêu.
Kỵ bên nội, kỵ bên ngoại, lễ Chạp mả, tiết Thanh minh, cúng Đức Trần, lễ
Chùa Hương, Phật Đản, Giáng Sinh, Đức Thầy, Tết Nguyên Đán, cúng Cô
Hồn, lên cây nêu, thờ Thần Táo, chay đàn, cầu siêu, bà Mụ, Hà Bá, Thành
Hoàng, Thánh Gióng,... thật không có một dân tộc nào liên hệ chặt chẽ với
quá khứ và hướng về đời sống tâm linh huyền bí sâu đậm như vậy.
Do đó mà hầu như người Việt Nam nào cũng có đạo, cũng là tín đồ của một
tôn giáo. Nếu đạo đó không có một vị giáo chủ, những giáo lý thành văn,
hoặc một giáo hội thì ít nhất người Việt Nam đó cũng chung chung theo đạo
thờ tổ tiên ông bà trong cái tổng hợp đẹp đẽ không mâu thuẫn của nền Tam
giáo Đồng Nguyên.
Sau khi cuộc di cư năm 1954 hoàn tất, dân số toàn quốc là 38 triệu mà trong
đó 15 triệu người sinh sống tại miền Nam tự do. Trên phương diện tôn giáo,
15 triệu người đó được phân chia như sau: Tin Lành ra đời tại Việt Nam từ
năm 1921 có độ 200.000 tín đồ, Hoà Hảo (từ năm 1939) có độ 1.500.000 tín
đồ, Cao Đài (từ năm 1925) có độ 1.500.000 tín đồ, và ngoài hai tôn giáo còn
lại là đạo Phật và Công giáo thì hầu như mọi người đều theo đạo gia tiên.
Đạo Phật được du nhập vào Việt Nam từ thế kỷ thứ hai sau Tây lịch với hai
đặc tính HOÀ và HOÁ của nó nên không những đã hoà được vào dân tộc
một cách dễ dàng mà còn hoá thành một thứ đạo Phật đặc thù Việt Nam,