Khủng hoảng kinh tế
Cuộc khủng hoảng kinh tế năm 1930, đặc biệt nặng nề ở Đông Dương
bởi nền kinh tế thuộc địa vốn yếu kém bẩm sinh, lại phải một phần gánh
chịu những hậu quả khủng hoảng kinh tế Pháp; vì những quyền lợi ở chính
quốc, để bù lại những thiệt hại của mình, chúng tăng cường bóc lột các
thuộc địa.
Giá cả thị trường thế giới về nguyên liệu, đặc biệt là gạo, cao su, than
giảm sút đã ảnh hưởng sâu sắc đến nền kinh tế Đông Dương vốn nhờ xuất
khẩu các sản phẩm ấy mà ''thịnh vượng''. Kinh ngạch xuất khẩu tụt từ 228
triệu đồng Đông Dương năm 1929 xuống 102 triệu đồng năm 1932; nhập
khẩu từ 227 triệu đồng tụt xuống 94 triệu. Giá gạo và giá cao su như sau:
Lượng gạo xuất khẩu tụt từ 1.900.000 tấn năm 1928 xuống 960.000 tấn
năm 1931; diện tích trồng lúa ở Nam Kỳ từ 2.200.000 ha tụt xuống
1.850.000 ha. Hàng trăm nhà máy xay xát gạo phải đóng cửa. Hàng ngàn
chiếc thuyền bị bỏ xó. Chỉ có 1/3 trong số 126.000 ha cao su được khai
thác.
Số công nhân trong các hầm mỏ giảm từ 46.000 năm 1930, xuống
33.700 năm 1932; đó là chưa kể phần lớn trong số họ đều trong tình trạng
bán thất nghiệp; sản xuất than tụt từ 1.972.000 tân năm 1929, xuống
1.592.000 tấn năm 1932; mỏ Crôm Cố Định phải đóng cửa. Mọi công trình
xây dựng mới phải đình lại.
Ở Sài Gòn tình hình các công trình như sau: