dụng này và những thế lực có quyền lợi công nghiệp của Pháp lại càng
cảnh giác, cản trở việc công nghiệp hóa xứ Đông Dương.
Nhờ thế, các công ty lớn của thực dân Pháp vượt qua được cuộc khủng
hoảng mà không bị thiệt hại gì lớn, trong khi những công ty nhỏ, phần lớn
là của người Việt Nam dần dần biến mất. Tất cả ý định muốn phát triển
kinh tế một cách tự chủ đều bị đập tan.
Thoạt nhìn, thì hình như sự giảm sút xuất khẩu gạo sẽ giúp nông thôn
giảm bớt đói kém. Hoàn toàn không phải như thế. Bởi vì các nông dân
nghèo muốn có tiền nộp thuế phải bán gạo nhiều hơn 3 đến 4 lần mới đủ.
Trước năm 1930, muốn nộp đủ thuế thân họ phải lao động trong 15 ngày;
những năm khủng hoảng kinh tế, họ phải lao động liền trong 2 -3 tháng vẫn
chưa có đủ tiền nộp thuế. Tình trạng đói kém xảy ra ngay tại các tỉnh giàu
có nhất ở Nam Kỳ, như Bạc Liêu chẳng hạn, trong khi nạn đói xuất hiện ở
các tỉnh thuộc miền Bắc Trung Kỳ. Giá ruộng hạ thấp đáng kể. Ở Nam Kỳ
giá 1 ha ruộng đáng giá 1.000 đồng phải đem bán tống đi với giá 150 - 200
đồng. Những nông dân mắc nợ phải bán đất của mình cho địa chủ, địa chủ
lại thế chấp ruộng của họ cho ngân hàng địa ốc. Vì thế, việc tập trung sở
hữu ruộng đất và việc bần cùng hóa giai cấp nông dân càng nhanh.
Một chỉ số khác thể hiện sự đình đốn hoạt động kinh tế. Lượng tiền lưu
hành năm 1923, theo tính toán của Paul Bemard, thực tế đã giảm bớt 35%
so với những năm 20.
Như vậy, cuộc khủng hoảng kinh tế đã phơi bày hoàn toàn những khuyết
tật và sự lệ thuộc nhục nhã của nền kinh tế thuộc địa.