– Nền công nghiệp nặng còn phôi thai, chưa thể trang bị cho các ngành
khác nhau của nền kinh tế, đặc biệt là nông nghiệp.
– Hạ tầng cơ sở các đường giao thông liên lạc còn thô sơ. Số công nhân
lành nghề, cán bộ kỹ thuật, số nhà khoa học chưa nhiều và chất lượng chưa
cao, cán bộ quản lý cũng vậy.
– Năng suất vẫn còn rất kém và mức song còn rất thấp. Đại hội III của
Đảng họp vào tháng 9 năm 1960, xác định đường lối tổng quát của sự phát
triển kinh tế và đặt những cơ sở của kế hoạch 5 năm lần thứ I(1961 - 1965),
xây dựng những cơ sở vật chất và kỹ thuật đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
Vấn đề là làm sao cho con đường xã hội chủ nghĩa phải thắng và đặc biệt là
cải tạo một nền kinh tế sản xuất tư nhân nhỏ bé lạc hậu thành một nền kinh
tế sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa.
Muốn thế, phải đề xướng một cuộc cách mạng trên 3 mặt: cách mạng
quan hệ sản xuất, cách mạng văn hóa và tư hưởng, cách mạng kỹ thuật và
khoa học, trong đó mặt thứ ba là mặt then chốt. Vấn đề là phải động viên
triệt để nhân tài và vật lực của cả đất nước, dưới sự lãnh đạo của Đảng,
đồng thời phải tìm cách để có sự viện trợ có hiệu quả nhất của các nước xã
hội chủ nghĩa anh em(Liên Xô, Trung Quốc và các nước khác).
Công nghiệp nặng phải được ưu tiên phát triển một cách hợp lý, bởi vì
còn phải có những nỗ lực to lớn để phát triển nông nghiệp, chỗ dựa của
phát triển công nghiệp và công nghiệp nhẹ. Cần phải vừa cố gắng đầu tư
lớn vừa chú ý cải thiện mức sống của nhân dân đã chịu đựng nhiều gian
khổ vì chiến tranh. Cũng không thể coi nhẹ vấn đề quốc phòng, vì miền
Bắc cũng bị đe dọa bởi những ý đồ xâm lược của đế quốc Mỹ.
Nhiều chiến dịch lớn đã được phát động để hoàn thiện công cuộc cải tạo
xã hội chủ nghĩa, cải tiến cách tổ chức và quản lý các xí nghiệp, nhất là các
hợp tác xã nông nghiệp vừa mới được thành lập. Nền công nghiệp do trung
ương quản lý được phát triển nhanh, nhưng công nghiệp địa phương sử
dụng kỹ thuật thủ công, bán cơ giới, cũng không bị coi nhẹ, bởi vì cả hai
đều chủ yếu phục vụ cho sự phát triển nông nghiệp.