Giáo dục và phát triển khoa học
Chiến dịch xóa mù chữ mở ra từ tháng 9 năm 1945 giành được thắng lợi
nhanh chóng. Với việc dùng ngôn ngữ dân tộc và xóa bỏ những yếu tố lạc
hậu và phản động trong các chương trình và sách giáo khoa, người ta bắt
đầu xây dựng một hệ thống giáo dục mới. Năm 1950, ở các vùng giải
phóng, một cuộc cải cách thực sự đã thiết lập một hệ thống giáo dục phổ
thông 9 lớp, gắn chặt đấu tranh chính trị, đấu tranh vũ trang, lao động sản
xuất với việc học tập ở trường học. Các trường sư phạm đào tạo giáo viên,
các chương trình giáo dục kỹ thuật và cao đẳng được dần dần xây dựng.
Việc giải phóng hoàn toàn miền Bắc năm 1954, tạo điều kiện cho sự phát
triển nhanh chóng của nền giáo dục. Những người mù chữ ở những vùng
mới được giải phóng nhanh chóng học đọc và học viết, trong khi các
trường học được hợp nhất trong một hệ thống giáo dục phổ thông duy nhất
gồm 10 lớp. Các lớp mẫu giáo phát triển không những ở thành thị mà ở cả
các làng xóm, những chi phí cần thiết do các hợp tác xã nông nghiệp đài
thọ. Đối với người lớn đã được xóa nạn mù chữ các lớp bổ túc văn hóa
được mở ra giúp họ nâng cao trình độ văn hóa, có những lớp đặc biệt dành
cho các cán bộ và chiến sĩ. Nhiều trường đại học và trung cấp được mở.
Năm 1964, khi Mỹ bắt đầu đánh phá, Bắc Việt Nam đã có được một hệ
thống trường học hoàn chỉnh từ mẫu giáo đến đại học và nhiều lớp giáo dục
bổ túc cho người lớn. Mỗi xã có ít nhất một trường cấp I(7 đến 11 tuổi,
phần lớn các xã có trường cấp II(12 đến 15 tuổi), mỗi huyện ít nhất có một
trường Cấp III(15 đến 18 tuổi).
Hệ thống trường học đã được thử thách trước sự xâm lược của Mỹ .
Trong mười năm, kể từ năm 1954, các trường phổ thông và đại học đã đào
tạo được một thế hệ thanh niên mới có một trình độ học vấn đủ để cung cấp
cho lực lượng vũ trang những chiến sĩ có khả năng sử dụng các vũ khí hiện
đại: pháo, tên lửa, ra-da, máy bay phản lực - những loại vũ khí thời Điện
Biên Phủ chưa có. Được giáo dục về chính trị và tư tưởng trong nhà trường