mới, thanh niên đã nhiệt tình thực hiện những nghĩa vụ của thời chiến ở
tiền tuyến cũng như ở hậu phương.
Các chỉ thị của Đảng và Chính phủ khẳng định: bất chấp chiến tranh, vẫn
tiếp tục phát triển giáo dục, không chỉ để đảm đương các nhiệm vụ thời
chiến mà còn để đáp ứng các nhu cầu của tương lai. Các trường phổ thông
và đại học ở các thành phố phải sơ tán vào rừng núi và về nông thôn,
trường học ở các xã phải phân tán thành những đơn vị nhỏ. Mỗi trường sơ
tán hoặc phân tán phải tự xây dựng trường sở mới, có hầm hào trú ẩn có
chỗ ở cho thầy và trò, thư viện và phòng thí nghiệm thì hoặc đặt trong nhà
dân hoặc trong các lán tạm bợ. Công việc to lớn đó đã được thực hiện tốt
nhờ tinh thần tận tụy của thầy và trò, lại được sự giúp đỡ ân cần của toàn
thể dân chúng.
Bởi thế, trong những năm chiến tranh, giáo dục vẫn không ngừng phát
triển, ngay cả ở những tỉnh bị bom đạn nhiều nhất, như các tỉnh gần vĩ
tuyến 17. Năm 1965, cơ quan chỉ đạo ngành giáo dục đại học và kỹ thuật
được tách khỏi Bộ Giáo dục để thành lập một bộ riêng.
Ở những vùng rừng núi, điều kiện khó khăn hơn nhiều. Sự đa dạng về
sắc tộc và ngôn ngữ, trình độ kinh tế và văn hóa còn lạc hậu, dân cư phân
tán hơn so với vùng đồng bằng. Nhiều chuyên ban soạn thảo ra chữ viết
cho những nhóm dân tộc quan trọng nhất. Học sinh miền núi vừa học yêng
dân tộc của mình vừa học tiếng kinh là ngôn ngữ chung của cả nước.
Tổng số học sinh cả nước Việt Nam(Bắc và Nam) năm 1939, dưới chế
độ thuộc địa: