Năm 206 trước công nguyên, khi nhà Tần sụp đổ, nếu ở vùng Lĩnh
Nam, Triệu Ðà lập ra nước Nam Việt, thì ở vùng trung nguyên của
Trung Quốc, Lưu Bang cũng lập ra một triều đại mới, đó là nhà Hán.
Năm 111 trước công nguyên, nhà Hán đã thôn tính được Nam Việt và
thay thế Nam Việt đô hộ nước ta. Lịch sử nhà Hán bao gồm hai giai
đoạn khác nhau. Giai đoạn thứ nhất bắt đầu từ khi Lưu Bang lên ngôi
Hoàng đế (Hán Cao Tổ) đến năm thứ 8 sau công nguyên. Giai đoạn
này sử gọi là thời Tiền Hán hay thời Tây Hán. Từ năm thứ 8 đến năm
thứ 25, loạn Vương Mãng đã làm cho nền thống trị của nhà Hán bị
gián đoạn một thời gian ngắn. Giai đoạn thứ hai bắt đầu từ khi Lưu Tú
lên ngôi Hoàng Đế (Hán Quang Võ) đến năm 220. Giai đoạn này sử
gọi là thời Hậu Hán hay thời Đông Hán. Cũng có khi, sử gộp chung,
gọi cả hai giai đoạn này là thời Lưỡng Hán.
Thời Lưỡng Hán, có tất cả 42 viên quan được cử sang làm đô hộ ở
nước ta.
3) Chính quyền đô hộ của nhà Ngô
Cuối thế kỉ thứ II, nhà Hán sụp đổ, các thế lực cát cứ nổi lên xâu xé
lẫn nhau. Đầu thế kỉ thứ III, Trung Quốc bước vào thời kì hỗn chiến
tương tàn của ba nước là Ngô, Thục và Ngụy. Sử gọi đó là thời Tam
Quốc. Thời này, nhà Ngô thống trị nước ta.
Trên danh nghĩa, nhà Ngô thống trị nước ta từ năm 220 đến năm 280.
Trong thời gian đó, 31 viên quan đã được cử sang làm đô hộ.
4) Chính quyền đô hộ của nhà Tấn
Năm 280, nhà Tấn thống nhất được Trung Quốc, và cũng từ năm đó,
nhà Tấn thay nhà Ngô thống trị nước ta.
Nhà Tấn tồn tại tổng cộng 140 năm (từ năm 280 đến năm 420). Trong
thời gian này, 22 viên quan của nhà Tấn đã được cử sang làm đô hộ
nước ta.