57. Chu Văn An
Chu Văn An sinh năm nào không rõ, chỉ biết ông mất vào năm Canh
Tuất (1370), được vua Trần Nghệ Tông (1370-1372) truy tặng tước Công
và được tòng tự (cho được thờ tự) ở Văn Miếu. Ông tên chữ là Linh Triệt,
hiệu là Tiều Ẩn, thụy là Văn Trinh. Sử cũ đã trang trọng dành nhiều đoạn
để ca ngợi danh tiết của ông, nay xin theo Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ,
quyển 7, tờ 34a-b và tờ 35a-b) kể tóm lược như sau:
“(Chu Văn) An người Thanh Đàm (nay là Thanh Trì, ngoại ô Hà Nội –
ND), tính cương nghị, thẳng thắn, sửa mình trong sạch, bền giữ tiết tháo,
không cầu lợi lộc. Ông ở nhà đọc sách, học vấn tinh thông, nổi tiếng khắp
cõi, học trò đầy nhà. Có người đỗ đại khoa như Phạm Sư Mạnh, Lê Bá
Quát, làm đến chức Hành khiển mà vẫn nghiêm giữ lễ học trò, khi đến
thăm thầy thì lạy ở dưới giường, được nói chuyện với thầy vài câu rồi mới
đi xa là lấy làm mừng lắm. Kẻ xấu thì ông nghiêm khắc quát mắng, thậm
chí la thét không cho vào. Ông sống trong sạch, thẳng thắn, nghiêm nghị,
lẫm liệt đáng sợ đến như vậy đấy.
Vua Minh Tông mời ông làm Quốc tử giám Tư nghiệp và dạy Thái tử.
Vua Dụ Tông ham chơi bời, lười chính sự, quyền thần lắm kẻ coi thường
phép nước, (Chu Văn) An khuyên can mà Dụ Tông không nghe, bèn dâng
sớ xin chém bảy tên nịnh thần, đều là những kẻ có thế lực, được Vua yêu,
người bấy giờ gọi sớ ấy là “thất trảm sớ”. Nhưng, sớ ấy dâng lên mà không
được Vua trả lời, ông liền treo mũ áo mà về quê.
Ông thích núi Chí Linh (Hải Dương – ND), bèn đến ở đấy, khi nào có
triều hội lớn thì về kinh sư. Dụ Tông đem chính sự giao cho ông nhưng ông
từ chối không nhận. Hiến Từ Thái hoàng Thái hậu bảo: -Ông ta là người
không thể bắt làm tôi được, ta làm sao mà có thể sai bảo được ông ta.
Vua sai nội thần đem quần áo ban cho ông, ông lạy tạ ơn xong rồi đem
cho người khác hết, thiên hạ cho ông là bậc cao thượng. Đến khi Dụ Tông
băng (1369), giềng mối họ Trần xuýt mất, nghe tin các quan lập vua mới
(chỉ Trần Nghệ Tông – ND), ông mừng lắm, chống gậy đến xin bái yết,