(Nguyễn Văn) Thành tâu: -Đích tôn thừa trọng, theo đúng lễ này mới gọi
là phải. Nay nếu bệ hạ muốn chọn người khác thì ở đời, biết con chẳng ai
bằng cha, việc này tôi không dám can dự.
Một hôm (Nguyễn Văn) Thành hội triều thần ở nhà riêng và nói: -Hoàng
Tôn Đán nên nối ngôi vua, tôi đã tâu Vua xin lập, các quan thấy thế nào?
Trịnh Hoài Đức sợ phải tội lây, liền ngăn trở, nói rằng: -Đấy là việc quốc
gia đại sự, phải để Nhà vua quyết đoán, không phải là việc của quần thần.
Nếu có ý riêng mà toan định đoạt, tội lớn lắm.
Nghe vậy, (Nguyễn Văn) Thành mới thôi. Từ đấy trở đi, mỗi khi vào
chầu, (Nguyễn Văn) Thành thường xin lập Thái tử, Vua im lặng khiến
(Nguyễn Văn) Thành càng ngờ và sợ hãi”.
- Sự kiện thứ bảy bắt đầu xảy ra từ cuối năm Ất Hợi (1815) và kết thúc
bi thảm vào mùa hè năm Đinh Sửu (1817): “Con của (Nguyễn Văn) Thành
là (Nguyễn Văn) Thuyên, đỗ Cử nhấn khoa Quý Dậu (1813), thường dùng
thơ văn để giao thiệp với khách. Nghe nói ở Thanh Hóa có Nguyễn Văn
Khuê và Nguyễn Đức Nhuận là những người nức tiếng hay chữ, (Nguyễn
Văn Thuyên) bèn sai môn hạ là Nguyễn Trương Hiệu đến mời. Trong bài
thơ (gởi hai người nói trên – NKT), có câu:
Thử hồi nhược đắc sơn trung đế
Tả ngã kinh luân chuyển hóa cơ.
(Nghĩa là: Thời nay, nếu mà có được vị chúa trong núi kia ở bên cạnh để
ta lo sắp đặt thì có thể xoay chuyển được cơ trời).
Câu thơ này hàm ý bội nghịch, cho nên, Nguyễn Trương Hiệu liền đi báo
với quan Thiêm sự
của bộ Hình là Nguyễn Hữu Nghi. (Nguyễn) Hữu
Nghi vốn có thù oán với (Nguyễn Văn) Thành, bèn sai (Nguyễn Trương)
Hiệu đem lời thơ ấy mà tố cáo với Lê Văn Duyệt. (Lê Văn) Duyệt và
(Nguyễn Văn) Thành vốn không hòa hợp, nên (Lê Văn) Duyệt liền đem thơ
ấy dâng Vua. Vua cho là sự trạng chưa rõ, sai trả lại (cho Nguyễn Văn
Thuyên). Thấy tờ giấy có bài thơ rất đáng giá, (Nguyễn Trương) Hiệu bèn
giữ lại để tống tiền (Nguyễn Văn) Thuyên. (Nguyễn Văn) Thuyên cho tiền