Năm Đường Trình Nguyên thứ 16 (800) An Phủ Sứ Vân Nam là Vi Cao
đánh quân Nam Chiếu thua ở Thiết Kiều, phủ Lệ Giang.
Năm Bính Dần (846) Nam Chiếu tràn qua Giao Châu nhưng Kinh Lược
Sứ là Bùi Nguyên Dụ đánh đuổi được. Sau đó, đến Vương Thức thay Bùi
Nguyên Dụ biết cách cai trị nên mọi mầm loạn đều tắt. Đến năm Canh Thìn
(860), Lý Hộ sang làm Đô Hộ thì Nam Chiếu đã mạnh thêm nhiều lắm. Con
Phong Hưu (vua Nam Chiếu) là Tư Long tự xưng đế và đặt quốc hiệu là
Đại Mông, sau lại đổi ra Đại Lễ. Tư Long to tăng cường ráo riết về quân sự,
động viên thanh niên từ 15 tuổi để đưa vào quân ngũ. Rồi một việc đã xẩy
ra dẫn đường cho quân Nam Chiếu bước thêm lần nữa vào đất Giao Châu.
Nguyên Lý Hộ ỷ thế mạnh của “thiên triều” giết người tù trưởng của dân
Mường là Đổ Thủ Trừng khiến toàn thể dân Mường bất mãn. Dân Mường
vốn có liên lạc với Nam Chiếu, muốn báo thù nhưng không đủ sức liền
vạch đường chỉ nẻo và xui giục quân Nam Chiếu xâm lược Giao Châu.
Tháng 11 năm ấy, Thành Đô Hộ bị thất thủ, Lý Hộ và Giám Quận bỏ chạy
về Vũ Châu. Tháng Giâng năm sau Đường triều phải cho Vương Khoan
đem quân Ung Châu và các miền lân cận sang cứu viện. quân Nam Chiếu
lại rút về, nhưng hai năm sau họ lại lần đến. Tướng Đường là Thái Tập đem
ba vạn quân sang đối phó, Nam Chiếu lại lui binh. Sau này Tiết Độ Sứ Lĩnh
Nam là Thái Kinh sợ Thái Tập lập được công to, mật tấu về triều đình rằng
tình hình Giao Châu đã ổn định không cần phải để quân đội ở lại. Vua
Đường liền rút đoàn quân viễn chinh về, Thái Tập muốn để lại 5.000 binh
cũng không được.
Hiểu được sự lục đục kể trên, năm Quý Mùi tức một năm sau Nam
Chiếu mở cuộc tấn công mãnh liệt hơn bao giờ hết, bằng số 50.000 quân
tràn như nước lũ vào Giao Châu, chiếm được phủ thành. Thái Tập thế cô
phải tự sát. Tướng Đường là Nguyên Duy Đức đem 400 quân Kinh Nam
đến cứu cũng thua, chạy ra đến bờ sông thì bí lối vì không có thuyền bè. Y
liền hô hào quân sĩ quay lại, liều sống mái với quân Nam Chiếu vì thế nào
cũng chết. Cuộc phản công này hại được hai ngàn binh sĩ Nam Chiếu nhưng