Nói về nhiệt độ, mình xin giởỉ thiệu một số tính từ miêu tả độ chín của
món ăn như sau:
Rare
là tái. Ở văn cảnh khác,
rare
có nghĩa là hiếm nhưng khi đang gọi
món ở nhà hàng thì nó có nghĩa là tái.
Thứ hai là
medium rare
- tái vừa, khúc thịt có màu đỏ ở lõi.
Medium
đứng một mình có nghĩa là trung bình.
Từ
medium
mình vừa nhắc đến nếu đứng một mình có nghĩa là chín
vừa. Và cuối cùng là
well done
(chín kì).
Tớ thấy từ gây bất ngờ nhất ở đây là từ
well done
Thương ạ. Bởi vì
thông thường chúng ta vẫn chỉ dùng từ
well done
để chỉ ai đó làm rất tốt
đúng không? Giống như các bạn đang tập đọc những từ này và chúng ta sẽ
khen các bạn ấy là
well done
vậy.
Sau khi chọn món rồi thì thực khách sẽ hỏi là:
Is that all?
(Đó có phải
là tất cả chưa ạ?). Hoặc:
Can I get you anything else?
(Tôi có thê lấy gì cho
anh chị nữa?).
Thương ơi! Vậy thì sau khi ăn xong chúng ta phải nói như thế nào đế
lấy hóa đơn đây?
Đó là câu:
Could I have the bill please?,
ở đây chúng ta dùng could
chứ không phải là can đế tăng tính trang trọng lịch thiệp cho câu nói đấy.
Vậy là một bữa ăn ở nhà hàng đã xong xuôi rồi đúng không? Thông
thường, nhân viên phục vụ sẽ nói:
Thank you. Please come again soon. (Xin cảm ơn. Mong quý khách
sớm quay lại).
Như các bài học trước, sau đây chúng mình xin được giới thiệu một số
từ vựng liên quan đến chủ đề nhà hàng để khi bắt gặp các bạn sẽ không còn
cảm thấy bỡ ngỡ. Nào chúng mình hãy cùng băt đầu nhé.
Appetizer
là món khai vị
Main course
(món chính)
Side dishes
(món phụ), side có nghĩa thông dụng nhất là phía hoặc
bên.
Nhưng trong từ
side dishes
này nó có nghĩa là món ăn kèm. Nếu
không dùng từ
side
ta có thể dùng từ
extra
.