của Anh, số lượng tàu bị đánh chìm không ngừng tăng lên, tiềm lực kinh tế
và quân sự của Anh nhanh chóng thu hẹp lại do sự tàn sát vô tình này. Sau
khi Đức thực hiện chiến tranh tàu ngầm không giới hạn, tổn thất tàu hàng
của các nước Hiệp ước từ 300.000 tấn vào tháng 1 và đến 400.000 tấn vào
tháng 2, rồi 500.000 tấn vào tháng 3, cho đến tháng 4 đã lên đến 850.000
tấn. Trong số các tàu hàng của Anh ra biển, bình quân cứ 4 chiếc lại có 1
chiếc bị đánh chìm.
Để đánh bại tàu ngầm Đức, bảo vệ tuyến giao thông trên biển, hải quân
Anh tiến hành “hệ thống bảo vệ hạm đội”. Có nghĩa là, tập hợp 10 hay mấy
chục chiếc tàu buôn lại thành một đội tàu, được hộ tống bởi tàu tuần dương
hoặc tàu tuần tra đi lại giữa Anh và Mỹ. Tàu hộ tống có trang bị máy dò
sóng âm và khả năng bắn ở tầng nước sâu, có thế phản công tàu ngầm, do
đó đã giảm thiểu đáng kể tổn thất của các tàu buôn. Đồng thời, Anh-Mỹ
nhanh chóng phát triển chiến thuật chống tàu ngầm, khiến tổn thất của tàu
ngầm Đức ngày một tăng. Năm 1918, mặc dù tàu ngầm Đức đánh chìm
1.283 tàu hàng của các nước Hiệp ước, nhưng đây chỉ là một nửa số lượng
tàu đánh chìm năm 1917. Sự phong tỏa của tàu ngầm Đức dần dần bị phá
vỡ.
Trong Thế chiến thứ nhất, để phá vỡ chiến tranh tàu ngầm của Đức, các
nước hiệp ước đã huy động 5.000 tàu bè để làm tàu hộ tống, ngoài ra còn có
3.000 máy bay tham gia vào chiến tranh chống lại tàu ngầm. Các nước Hiệp
ước đã đánh chìm tổng cộng 178 tàu ngầm đối phương, đánh bại hoàn toàn
kế hoạch “chiến tranh tàu ngầm không giới hạn” của Đức.