phương châm chiến lược phòng ngự đơn thuần nên đã không thể cầm cự
với quân Nhật được trang bị hiện đại, và chiếm ưu thế tuyệt đối về mặt
quân sự. Cả vùng lãnh thổ rộng lớn Hoa Bắc, Đông Nam và Hoa Trung rơi
vào tay quân Nhật.
Tháng 10 năm 1938, sau khi cuộc chiến bảo vệ Vũ Hán kết thúc, cuộc
chiến kháng Nhật bước vào giai đoạn giằng co. Uông Tinh Vệ đã đầu hàng
quân Nhật. Tưởng Giới Thạch một mặt vẫn muốn kháng Nhật, nhưng mặt
khác lại cảm thấy lo lắng không yên trước sự lớn mạnh của Đảng Cộng sản,
cánh quân số 8 và quân đoàn 4 mới. Vì vậy, ông đã thực thi phương châm:
Làm tan rã cộng sản, phòng chống cộng sản, hạn chế cộng sản, tiêu diệt
cộng sản, lần lượt phát động 3 cao trào phản cộng, nhưng không gây nên
xung đột.
Tháng 12 năm 1941, sau khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ,
Tưởng Giới Thạch được các nước Đồng minh Anh, Mỹ tôn làm thống soái
tối cao chiến khu Trung Quốc. Ông phái quân viễn chinh Trung Quốc đến
Myanma liên hợp với quân đội Anh, Mỹ đánh quân Nhật, khai thông con
đường Trung - Ấn.
Sau thắng lợi của cuộc chiến tranh chống Nhật, ông một mặt dựa vào
nước Mỹ để chuyển quân từ hậu phương Tây Nam và Tây Bắc xa xôi đến
vùng ven biển, rồi ra lệnh cho quân Nhật cố thủ tại chỗ để cản trở quân dân
ngày đêm kiên trì kháng Nhật, khôi phục lại đất nước; mặt khác lại cùng
với chủ tịch Đảng Cộng sản Trung Quốc Mao Trạch Đông tiến hành đàm
phán và ký kết "Kỷ yếu hội đàm song phương Cộng sản Đảng - Quốc dân
Đảng" tại Trùng Khánh.
Nhưng ngay sau đó lại lấy danh nghĩa "tiếp quản chủ quyền" điều động
một lực lượng lớn chiếm trước các cứ điểm chiến lược.
Tháng 6 năm 1946, ông lại cho phát động cuộc nội chiến toàn diện. Sau
khi vấp phải sự đánh trả quyết liệt của quân giải phóng nhân dân, năm sau,
ông chuyển sang tiến hành tiến công trọng điểm vào Đảng Cộng sản ở hai
tỉnh Sơn Đông và Thiểm Bắc.