trưởng, chi đội trưởng, sư đoàn trưởng Hồng quân công nông Trung Quốc,
tham mưu trưởng quân đoàn 4 Hồng quân, tham mưu trưởng quân đoàn 7.
Ông từng tham gia xây dựng khu Xô viết trung ương và nhiều lần tham gia
vào cuộc chiến đấu chống "vây quét sào huyệt".
Tháng 7 năm 1934, ông tham gia chỉ huy đội quân tiền trạm kháng Nhật
phía Bắc của Hồng quân, lần lượt chuyển đến các chiến trường vùng biên
giới Phúc Kiến, Chiết Giang, An Hùng và Giang Tây.
Sau khi đội quân tiền trạm bị thất bại, ông cùng với Lưu Anh dẫn số quân
còn sót lại tiến đến khu vực Chiết Giang. Tại đây, ông nhậm chức sư đoàn
trưởng sư đoàn Quyết Tiến, tư lệnh quân khu Phúc Kiến - Chiết Giang.
Trong tình thế bị mất liên lạc với trung ương, lại bị cô lập trong vùng đất
thống trị của Quốc dân Đảng, ông vẫn xây dựng được căn cứ địa du kích,
đánh bại nhiều lần "càn quét sào huyệt" của Quốc dân Đảng, kiên trì chiến
tranh du kích vô cùng gian khổ kéo dài suốt 3 năm.
Sau khi kháng chiến chống Nhật bùng nổ, ông nhậm chức phó tư lệnh chi
đội số 2 và tư lệnh chi đội tiền trạm thuộc quân đoàn 4 mới. Tháng 4 năm
1938, ông dẫn quân tiến đến Tô Nam. Ngày 17 tháng 6, ông đã chỉ huy
quân phục kích quân Nhật tại Vĩ Cương phía nam Trấn Giang, trận đầu ra
quân thắng lợi rực rỡ, tiêu diệt và làm bị thương hơn 20 vạn quân của Thiếu
tá Tsuko. Ông đã làm thơ ca ngợi:
"Quân đoàn số 4 mới,
Tiền trạm xuất Giang Nam
Vĩ Cương chém tướng Nhật
Trận đầu tấu khải hoàn.
Sau đó, ông nhậm chức phó chỉ huy bộ chỉ huy Giang Nam quân đoàn số
4 mới và bộ chỉ huy Tô Bắc, phối hợp với Trần Nghị lập ra căn cứ địa
kháng Nhật Giang Nam, Tô Bắc.
Tháng 10 năm 1940, ông đến tiền tuyến chỉ huy chiến dịch Hoàng Kiều,
với lực lượng 5.000 quân, nhưng đã tiêu diệt được hơn 1 vạn quân phái