thắng lợi, ông đã đưa ra chương trình đẩy mạnh ba cuộc cách mạng lớn về
tư tưởng, kỹ thuật và văn hoá; quy định nhiệm vụ tổng thể công tác của
Đảng là triệt để xây dựng thể chế tư tưởng đơn nhất của Đảng.
Năm 1972, ông đưa ra ba nguyên tắc lớn thống nhất tổ chức với nội dung
cơ bản là tự chủ, hoà bình thống nhất. Trong hội nghị khoá VI Đảng Lao
động Triều Tiên, ông đưa ra phương án thống nhất về xây dựng nước cộng
hoà liên bang dân tộc Cao Ly. Ông đã có đóng góp rất lớn đối với thắng lợi
của cuộc cách mạng Triều Tiên đầy khó khăn, gian khổ và phức tạp cũng
như đối với việc đẩy nhanh tiến trình cách mạng thế giới. Vì vậy, ông luôn
đảm nhậm chức vụ thành viên tối cao hội nghị nhân dân tối cao nước Cộng
hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên (nguyên thủ quốc gia). Bắt đầu từ khoá
V, ông liên tục đảm nhậm chức vụ chủ tịch nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Triều Tiên. Từ tháng 10 năm 1945 đến tháng 9 năm 1966, ông giữ chức
vụ chủ tịch ủy ban trung ương Đảng Lao động Triều Tiên (nguyên thủ quốc
gia). Bắt đầu từ tháng 10 năm 1966, ông được bầu làm Tổng bí thư uỷ ban
trung ương Đảng Lao động Triều Tiên.
Tháng 4 năm 1992, ông được phong tặng danh hiệu Đại Nguyên soái
nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên. Đồng thời, ông cũng ba lần
được phong tặng danh hiệu Anh hùng nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân
Triều Tiên và Anh hùng Lao động nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên. Ông cũng vinh dự được các nước trên thế giới tặng huân chương tối
cao và danh hiệu tiến sỹ, giáo sư danh dự của nước mình. Ngày 8 tháng 7
năm 1994, ông lâm bệnh và qua đời tại Bình Nhưỡng. Tác phẩm chính của
ông được tập hợp trong "Kim Nhật Thành tuyển tập".