đạo đảng ủy quân cách mạng nhân dân Triều Tiên - tổ chức có đủ sức mạng
thống nhất nắm quyền và lãnh đạo tổ chức Đảng ủy quân cách mạng nhân
dân Triều Tiên và tổ chức Đảng địa phương.
Ngày 5 tháng 5 năm 1936, ông lập ra tổ chức trận tuyến thống nhất dân
tộc kháng Nhật - Hội phục hưng tổ quốc - và giữ chức chủ tịch hội.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, cuộc đấu tranh cách mạng kháng Nhật, nòng
cốt là đấu tranh vũ trang do ông lãnh đạo, đã giành được thắng lợi, sự
nghiệp khôi phục nước nhà đã được hoàn thành.
Ngày mồng 10 tháng 10 năm 1945, ông thành lập ủy ban tổ chức trung
ương Đảng Cộng sản Triều Tiên, đánh dấu sự kết thúc thắng lợi của sự
nghiệp xây dựng Đảng vĩ đại. Ngay sau đó, ông lại cho thành lập tổng liên
minh tổ hợp lao động Triều Tiên, tạo nên sự đoàn kết chặt chẽ trong quần
chúng nhân dân xung quanh Đảng. Ngày 8 tháng 2 năm 1946, ông thành lập
ủy ban nhân dân lâm thời Triều Tiên và được bầu làm chủ tịch ủy ban.
Ngày 28 tháng 8 năm 1946, Đảng Cộng sản Triều Tiên và Đảng Nhân
dân mới Triều Tiên đã sáp nhập thành một Đảng thống nhất của quần chúng
lao động - Đảng Lao động Triều Tiên.
Tháng 2 năm 1947, ông thành lập chính quyền độc lập giai cấp vô sản
đầu tiên của Triều Tiên - Uỷ ban nhân dân Triều Tiên và được bầu làm chủ
tịch ủy ban. Ngày 9 tháng 9 năm 1948, theo nguyện vọng của toàn thể nhân
dân Triều Tiên, ông đã tuyên bố thành lập nước Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Triều Tiên và được bầu làm thủ tướng nội các (nguyên thủ quốc gia) và
chủ tịch uỷ ban quân sự nước Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, tư
lệnh tối cao quân đội nhân dân Triều Tiên. Ông đã đưa cuộc chiến tranh giải
phóng đất nước đi đến thắng lợi, bảo vệ thành công quyền tự chủ dân tộc và
thành quả cách mạng.
Tháng 2 năm 1953, ông được phong tặng danh hiệu nguyên thủ nước
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Triều Tiên.
Tháng 11 năm 1970, tại hội nghị khoá V Đảng Lao động Triều Tiên,
nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng xã hội chủ nghĩa nhanh chóng đi đến