thuật quản lý), yêu cầu các hoạt động chuyển giao công nghệ tích cực hơn,
hoặc uỷ quyền đào tạo công nhân.
Giờ đây, nói rằng vốn đầu tư nước ngoài có thể không tốt cho đất nước bạn
bằng nguồn vốn của chính quốc gia bạn không có nghĩa là chúng ta phải
luôn luôn thích nguồn vốn của quốc gia hơn nguồn vốn nước ngoài. Điều
này là bởi vì quốc tịch của vốn không phải là điều duy nhất để xác định
hành vi của nguồn vốn. Mục đích và khả năng của vốn cũng là vấn đề quan
trọng.
Giả sử bạn đang nghĩ đến việc bán công ty ô tô thuộc sở hữu nhà nước đang
gặp rắc rối. Lý tưởng nhất là, bạn muốn chủ sở hữu mới sẵn sàng và có khả
năng nâng cấp công ty trong thời gian dài. Người mua tiềm năng có khả
năng sở hữu công nghệ tốt hơn để thực hiện được điều đó thường là một
công ty sản xuất ô tô có uy tín, cho dù là công ty trong nước hay nước
ngoài, hơn là một công ty tài chính, chẳng hạn như một quỹ đầu tư cổ phần
tư nhân.
Trong những năm gần đây, các quỹ đầu tư cổ phần tư nhân đã thể hiện vai
trò ngày càng quan trọng trong các vụ mua lại doanh nghiệp. Mặc dù họ
không có chuyên môn thực tế trong các ngành công nghiệp cụ thể, về mặt lý
thuyết, họ có thể mua được một công ty trong thời gian dài và thuê các
chuyên gia công nghiệp quản lý và yêu cầu họ nâng cao năng lực của công
ty. Tuy nhiên, trên thực tế, các quỹ này thường không có ý định nâng cấp
các công ty được mua lại trong thời gian dài. Họ mua công ty với mục đích
bán chúng đi sau khoảng ba đến năm năm sau khi tái cơ cấu để công ty có
khả năng tạo ra lợi nhuận. Việc tái cơ cấu như vậy, do giới hạn về thời gian,
thường là liên quan đến việc cắt giảm chi phí (đặc biệt là sa thải người lao
động và hạn chế đầu tư dài hạn), hơn là nâng cao năng lực. Chuyển dịch cơ
cấu như vậy có khả năng làm tổn hại đến triển vọng dài hạn của công ty
bằng cách làm suy yếu khả năng tạo ra tăng trưởng năng suất trong thời
gian dài. Trường hợp tệ nhất là, các quỹ đầu tư cổ phần tư nhân có thể mua
lại công ty với ý định rõ ràng là tước đoạt tài sản, bán các tài sản có giá trị