quốc gia vượt qua giới hạn đó. Dòng người nhập cư vào quá nhanh sẽ
không chỉ dẫn đến sự gia tăng đột ngột trong cuộc cạnh tranh về công ăn
việc làm mà còn đòi hỏi thêm nhiều cơ sở hạ tầng vật chất và xã hội, như
nhà ở và chăm sóc sức khỏe, và tạo ra những căng thẳng cho người dân địa
phương. Việc cấp chứng minh thư nhân dân cũng rất quan trọng, nếu không
muốn nói là có thể dễ dàng xác định số lượng. Nó là một câu chuyện hoang
đường - một ý tưởng huyễn hoặc cần thiết, nhưng dù sao vẫn là một ý tưởng
huyễn hoặc - rằng các quốc gia có chứng minh nhân dân không thể thay đổi
được, những cái mà không thể, và không nên thay đổi. Tuy nhiên, nếu có
quá nhiều người nhập cư đến cùng một lúc, nước tiếp nhận sẽ gặp khó khăn
trong việc cấp chứng minh nhân dân mới, mà không có nó khó có thể duy
trì được trật tự xã hội. Điều đó có nghĩa rằng tốc độ và quy mô nhập cư nên
được kiểm soát.
Điều này không phải là để nói rằng các chính sách nhập cư hiện hành của
các nước giàu không thể cải thiện được. Trong khi khả năng tiếp nhận
người nhập cư của bất kỳ xã hội nào đều có giới hạn, đó không phải như thể
là tổng dân số phải cố định. Các xã hội có thể quyết định mở cửa nhiều hơn
hoặc ít hơn cho người nhập cư bằng cách áp dụng các chính sách xã hội và
thái độ khác nhau đối với việc nhập cư. Về vấn đề thành phần dân nhập cư,
hầu hết các nước giàu tiếp nhận quá nhiều người “không phù hợp” theo
quan điểm của các nước đang phát triển. Trên thực tế, một số nước bán hộ
chiếu thông qua các cơ chế mà ở đó những người nộp nhiều hơn một số
tiền“đầu tư” nhất định sẽ được tiếp nhận nhanh hơn. Cơ chế này chỉ làm
tăng thêm sự thiếu vốn mà hầu hết các nước đang phát triển phải gánh chịu.
Các nước giàu cũng góp phần gây ra tình trạng chảy máu chất xám ở các
nước đang phát triển bằng việc dễ dàng tiếp nhận hơn đối với những người
có kỹ năng cao hơn. Đây là những người có thể đóng góp nhiều hơn cho sự
phát triển của đất nước mình so với những người nhập cư không có kỹ năng
chuyên môn, nếu họ còn sống tại quê nhà của mình.