Trong một lần đích thân thăm một mỏ sa khoáng ở vùng núi miền Bắc
nước Việt, Trác tình cờ phát hiện ra ngôi chùa nhỏ ngay lưng chừng núi.
Những ngôi chùa ở nơi anh không sinh ra thật kỳ lạ: rêu phong, thâm
nghiêm và u tịch, nó không giống bao mái chùa rực rỡ như cung điện mà
anh đã quen mắt từ tấm bé. Ngôi chùa ấy, chỉ có một nhà sư và một chú
tiểu. Anh ngồi dưới bóng cây si giữa sân, hít sâu mùi hương hoa mộc đầy
lồng ngực. Khi đối diện con người mặc áo nâu khổ hạnh, anh đồ rằng bát
nước màu nâu có mùi vị đặc biệt mà ông mời khách cũng giống như chất
phản quang dẫn truyền khi chụp X-quang, nó làm lộ hết những quanh co
khúc khuỷu mà anh hằng giấu kín.
- Niết bàn ở ngay cõi luân hồi. – Ông chậm rãi. – Nó tồn tại trong sinh
tử. Chúng sinh thường ngày vẫn có thể tu dưỡng và giác ngộ giữa vô
thường. Người sống cũng như kẻ chết thảy đều mang trong mình thể tính
thanh tịnh không sinh diệt. Ấy chính là Phật tính vậy. Phật không ở ngoài
Tâm đâu.
- Bạch thầy, thầy đã giác ngộ, đã có thể hình dung đến Pháp thân1
được chưa. – Trác hoàn toàn vui vẻ và anh muốn hỏi khó nhà tu hành chỉ
biết sống bằng nước giếng trời và gạo trắng.
- Không ai có thể trả lời câu này cho con, nhưng ta vẫn hình dung đến
một đại dương vô hạn định, lặng yên và tĩnh mịch, không tì vết tối tăm u
ám. Trong ấy có bản thể của vũ trụ, chính là sinh tử và Niết bàn.
Song chiều nay, Phra Sutta bảo anh.
- Nirvana ư, chỉ khi nào con giải thoát khỏi luân hồi mới có thể vươn
tới nơi cực lạc. Không ai khác ngoài con, phải tự tìm cách giải thoát cho
chính mình.
Trác trở mình trên đất lạnh. Phra Sutta hiểu nhầm ý của anh. Anh
không quan tâm con đường mình đang đi tới là Niết bàn hay địa ngục,
nhưng anh muốn được giải thoát khỏi những nỗi ám ảnh đang cắn xé tâm
thức như hàng ngàn con kiến dưới da thịt đang hun nóng cẳng chân chày
xước. Khi Trác tọa thiền, anh không mong rằng tất cả nghiệp chướng chồng
chất từ vô thuỷ có thể được gột rửa. Anh chỉ muốn những hình ảnh hỗn độn
đang bám chặt lấy vỏ não như vòi bạch tuộc sẽ tan ra và rã nát. Khi nhắm