rằng vùng biển này thực chất chỉ là vịnh. Quan điểm này đã được
Eratosthenes thừa nhận và được phổ biến, cùng với một vài phản đối cho tới
tận thế kỷ XIV. Về chuyến thám hiểm của Alexander, xem Quyển bảy.
Sandracottus là Chandragupta, người sáng lập ra triều đại Mauryan, người
đã trục xuất những người Macedonia khỏi Punjab sau khi Alexander qua
đời và đã cai trị phần lớn Ấn Độ, kể cả lãnh thổ phía Tây sông Ấn mà
Seleucus đã nhượng lại cho ông vào năm 304. Megasthenes là sứ giả của
Seleucus và trước tác của ông đã hình thành nên kiến thức nền tảng của Hy
Lạp về Ấn Độ; xem Strabo, Quyển 15 và Indica của Arrian.
Cybele, phần núi Dindymus ở Phrygia đã được thánh hóa.
Xem Herodotus 2.5, và 2.10-34.
Theo thần thoại Hy Lạp, Menelaus là vua của Sparta trong thời kì Mycenae
và là chồng của nàng Helen. (ND)
Odyssey 4.477, 581.
Arrian đã nêu tên của những dòng sông này trong cuốn Indica (4.8-12) của
ông.
Herodotus 7.33-6; 4.83, 97.
Vua của Pauravas, vương quốc nằm giữa lưu vực sông Hydaspes và
Acesines.
Địa điểm hạ trại của Alexander và nơi ngài vượt sông không được biết tới.
Dự đoán có vẻ khả quan nhất là do Ngài Aurel Stein đưa ra. Ông cho rằng
Alexander đã dừng quân hạ trại tại Haranpur và đã vượt sông tại Jalalpur.
Thảo luận về nhiều giả thuyết, xem Fuller, tr.181-5. Về các cuộc hành quân
tấn công Porus, xem Diodorus 17.87-89; Curtius 8.13-14; Plutarch,
Alexander 60.
Arrian đã nhầm lẫn. Quả thực, trong phần sau, ông thuật lại rằng cuộc chiến
nổ ra vào tháng Năm. Theo Nearchus (Strabo 15.1.18; Arrian, Indica 6.5),
vào hạ chí, tức là vào khoảng 21 tháng Bảy, Alexander đã hạ trại bên dòng
Acesines.
Tương đương với những tiểu đoàn bộ binh của họ (Tarn, Alexander 2.191).
Seleucus Nicator đã lập nên triều đại Seleucid, triều đại đã cai trị phần lớn
lãnh thổ châu Á mà Alexander đã chinh phục.