Xem Diodorus 17.89.6; Curtius 8.14.45; Plutarch, Alexander 60.15.
326 TCN. Diodorus (17.87.1) đã nhầm lẫn khi nói rằng cuộc chiến nổ ra khi
Chremes làm quan chấp chính, nghĩa là vào tháng Bảy năm 326 – tháng Sáu
năm 325.
Plutarch (Alexander 61) nói rằng phần lớn những sử gia cho rằng
Bucephalus chết vì vết thương, nhưng Onesicritus thuật lại rằng con thần
mã này chết vì tuổi già vào năm nó 30 tuổi. Chúng tôi không cho rằng độ
tuổi của Becephalus tương đương với tuổi của Alexander hoặc Alexander
không thể “thuần hóa” con ngựa này cho tới khi nó 16 tuổi. Bucephalus có
thể đã sống tới năm 30 tuổi, và Alexander đã cưỡi nó khi nó khoảng 7 hoặc
8 tuổi. Về miêu tả công cuộc thuần hóa Bucephalus, xem Plutarch,
Alexander 6.
Nghĩa là ở khu vực nằm giữa Susa và Persepolis. Plutarch (Alexander 44.3-
4) cho rằng sự việc này diễn ra ở Hyrcania, Diodorus (17.76.5) và Curtius
(6.5.18) cho rằng vụ việc xảy ra ở khu vực của người Mardia, tới phía tây
Hyrcania.
Diodorus (17.89.6) nhắc tới một cuộc dừng chân kéo dài 30 ngày.
Arrian đã nhắc tới trước đó về sự xuất hiện của các sứ thần của Abisares,
người cai trị Kashmir.
Strabo (15.1.30) cho rằng vị Porus này chính là cháu của Porus, vua
Paurava.
Vì Nicanor đã được chỉ định làm thống đốc của lãnh thổ phía tây Sông Ấn
(xem Quyển bốn) và lần gần nhất Sisicottus được nhắc đến là với vai trò thủ
lĩnh của một pháo đài gần Aornus (xem Quyển bốn), có thể Sisicottus là cấp
dưới của vị xatrap đã bị sát hại, Nicanor.
Trong Indica (3.10), Arrian đã viết là điểm giao với sông Ấn có bề rộng
khoảng 6 kilômét, nhưng đó là sau khi nó nối với dòng Hydaspes và
Hydraotes.
Cả Sangala lẫn Pimprama (được nhắc tới sau đó) đều không xác định được;
dĩ nhiên chúng đều nằm trong địa hạt Amritsar. Tộc người Malli và
Oxydracae sinh sống ở khu vực xa hơn về phía nam.