Ngày hôm đó, hắn đã bảo tôi rằng hắn đã từ bỏ hy vọng đòi
được tiền chuộc tôi, vì bố mẹ tôi vẫn không liên lạc với hắn. “Rõ
ràng họ chẳng quan tâm mấy đâu,” hắn bảo. Và phán quyết đã
được đưa ra. Một bản án chung thân. “Mi đã biết mặt ta và biết ta
quá rõ. Giờ đây ta không thể thả mi ra được. Ta sẽ không bao giờ trả
mi trở về với bố mẹ, nhưng ta sẽ chăm sóc mi tại đây hết mức có
thể.”
Mọi hy vọng của tôi đột nhiên tắt ngấm trong ngày chủ nhật
Phục sinh ấy. Tôi khóc và nài nỉ hắn thả tôi ra. “Nhưng tôi còn phải
sống mà. Không thể nhốt tôi ở đây được! Còn trường lớp thì sao,
bố mẹ thì sao?” Tôi đã thề có Chúa và thề với tất cả những gì
thiêng liêng đối với tôi rằng tôi sẽ không phản bội hắn. Nhưng
hắn đã không tin tôi, và bảo rằng một khi được tự do tôi sẽ quên lời
thề rất chóng vánh, hoặc không chịu nổi áp lực từ cảnh sát. Tôi đã
cố nói rõ với hắn rằng hắn không nên sống cả đời với nạn nhân
của một vụ án ở trong hầm, và năn nỉ hắn bịt mắt tôi và dẫn tôi đi
thật xa. Tôi sẽ không bao giờ tìm ra được căn nhà ấy và không có
một cái tên nào để cảnh sát dò ra hắn. Tôi thậm chí còn vạch kế
hoạch để hắn được thoát. Hắn có thể ra nước ngoài; dù sao thì
sống ở một nước khác cũng sẽ dễ chịu hơn nhiều so với việc nhốt
tôi mãi mãi trong một buồng giam và phải chăm sóc tôi.
Tôi thổn thức, van nài và có lúc hét lên, “Cảnh sát sẽ tìm ra tôi! Họ
sẽ nhốt ông. Hoặc bắn ông chết! Nếu không, bố mẹ tôi sẽ tìm ra
tôi!” Giọng tôi vỡ ra.
Priklopil vẫn hoàn toàn trầm tĩnh. “Bố mẹ không quan tâm đâu,
quên rồi sao? Còn nếu họ đến đây, tao sẽ giết họ.” Rồi hắn đi
ra khỏi hầm, khóa cửa lại từ bên ngoài.