Trong phần còn lại của đêm ấy, ngài Acharn cảm xúc đến rơi lụy vì
saṁvega (nỗi buồn vô hạn) vì vô minh trong quá khứ của Ngài đã làm Ngài
trải qua đau khổ vô cùng tận trong vòng quay những lần sanh và tử. Với
thức tỉnh cuối cùng và những chứng ngộ Giáo Pháp mà Đức Phật đã tuyên
ngôn hơn 2.000 năm về trước, Ngài giống như người lữ hành đơn độc và
mệt mỏi, tình cờ gặp được một ao hồ rộng lớn, nước trong veo, mời khách
giải khát để bồi bổ sức khỏe. Ngài cảm thấy như mình có thể cung kính đảnh
lễ Tam Bảo ngày đêm, suốt trọn đời, cũng vẫn chưa bày tỏ hết lòng biết ơn
của mình đối với Phật Bảo, Pháp Bảo, Tăng Bảo của những vị thời xưa đã
noi theo cùng một Đạo Lộ. Vào lúc bấy giờ nếu có ai nhìn thấy Ngài đang
cung kính quỳ lạy, lệ tuôn đầy mặt, chắc tưởng Ngài vô cùng đau khổ, đang
van nài cầu xin thần linh cứu giúp. Nhưng những giọt lệ và những cái vái lạy
này chỉ biểu lộ lòng tri ân sâu xa và khiêm nhường nhất đối với những gì đã
từ bi dẫn dắt Ngài đến sự khám phá vĩ đại nhất trong đời. Vị tỳ khưu đang
quỳ lạy với mặt mày đầy nước mắt kia đã chứng ngộ Phật, Pháp, Tăng trong
tâm. Đức Phật dạy: “Người nào thấy Giáo Pháp là thấy Như Lai, thấy Như
Lai là thấy Giáo Pháp.”
Đêm ấy, chư thiên trong các cảnh giới trời đồng thanh tán tụng sự chứng
ngộ của Ngài Acharn, tiếng vang dội cùng khắp tam giới, rồi đến đảnh lễ
Ngài và tôn kính Ngài thuyết giảng cho một thời Pháp, nhưng vì còn mê mải
trong Giáo Pháp Tối Thượng, và sẽ còn ở trong trạng thái ấy ít lâu, nên Ngài
mời chư vị trở lại sau. Các vị trời hiểu ý Ngài, bái từ trở về cảnh giới của
mình, lòng vô cùng hoan hỷ vì được yết kiến một
vị visuddhideva
trong đêm đầu tiên khi Ngài vừa chứng đắc.
Tảng sáng sau thời thiền tọa, Ngài Acharn ôn lại những kinh ngạc tuyệt
diệu vừa qua trong đêm, và hết lòng cảm tạ những người dân trong làng
thường ngày để bát cúng dường mình. Ngài cũng hết lòng tri ân cội cây Ngài
ngồi hành thiền dưới gốc. Khi đến giờ đi vào làng hành trì bình, thoạt tiên
Ngài cảm thấy hôm ấy mình không cần vật thực vì hạnh phúc Giải Thoát mà
Ngài trải qua trong đêm đã bồi dưỡng quá đủ. Nhưng vì tâm từ đối với
những người trong làng đã thường ngày cung cấp thức ăn, Ngài cảm thấy có
bổn phận phải vào trong xóm làng người thượng này như thường lệ.