Ông ngồi xuống ghế. Tôi đứng trước mặt ông. "Ông ngồi xuống đi". Tôi
ngồi xuống. Chúng tôi ngồi khoảng hai phút, ông chăm chú nhìn tôi và
bỗng mỉm cười, tôi ghi nhớ điều đó rồi ông đứng lên, ôm ghì lấy tôi và
hôn…
- Hãy nhớ kỹ lần thứ hai này tôi đến anh như thế nào. - ông nói. - Nghe rõ
chứ, nhớ kỹ điều đó!
Lần đầu tiên, ông gọi tôi bằng "anh". Rỏi ông ra về. "Ngày mai", - tôi nghĩ.
Sự thể đúng như vậy. Tối hôm ấy, tôi không biết ngày mai chính là ngày
sinh nhật của ông. Mấy ngày gần đây tôi không hề đi đâu, vì thế không
được ai nói cho biết. Hằng năm đến ngày ấy nhà ông rất đông khách, cả
thành phố kéo đến. Lần này cũng thế.
Thế rồi, sau bữa tiệc thịnh soạn, ông ra giữa nhà, hai tay cầm tờ giấy: đơn
chính thức trình cấp trên. Bởi vì cấp trên của ông có mặt tại đây, nên ông
đọc lên cho mọi người cùng nghe, trong đơn thuật lại đầy đủ tội ác ông đã
làm, với mọi chi tiết: "Tôi là con quái vật, tôi tự loại mình ra khỏi xã hội
loài người. Chúa Trời đã đến cùng tôi, - ông kết luận trong đơn, - tôi muốn
đau khổ!". Liền đó, ông dem ra bày lên bàn tất cả những thứ mà ông coi là
có thể chứng minh tội của ông mà ông đã cất giữ mười bốn năm trời: những
đồ vật bằng vàng của người đàn bà bị giết mà ông đã lấy đi để đánh lạc
hướng nghi ngờ, tấm ảnh đeo dây chuyền và cây thánh giá ông tháo ở cổ bà
ta - ảnh đeo dây chuyền ấy là chân dung vị hôn phu của bà ta, quyển sổ ghi
và cuối cùng là hai lá thư: thư của vị hôn thê báo tin ông ta sắp về và thư trả
lời của bà ta chưa viết xong, bà ta để trên bàn định mai gửi bưu điện. Ông
lấy đi cả hai bức thư đó, để làm gì? Rồi ông giữ suốt mười bốn năm trời để
làm gì trong khi đáng lẽ phải huỷ đi cho phi tang? Tình thế đã diễn ra như
thế này: mọi người đều ngạc nhiên và khiếp sợ, không ai muốn tin, tuy mọi