nhất bên cạnh, bao việc của nhà nông, cậu không làm thì ai làm nên cũng
đã quen cả rồi.
Mười lăm tuổi Đằng Tuấn vào bộ đội, cậu thao luyện nghiêm túc, làm
việc hay giúp người khác đều tích cực, thêm vẻ ngoài ưa nhìn, tính cách
trung hậu, mấy lần cứu người bị nạn lập công, rất được cấp trên yêu thích.
Nhưng vì trong quân đội cậu không có mối quan hệ nào, lúc giải ngũ chỉ
được lĩnh một, hai chục triệu bồi thường rồi được đẩy về chốn cũ. Cậu cũng
chẳng có lời nào oán thán, vốn là một đứa trẻ nhà nông, từ đâu đến thì về
nơi đó là chuyện bình thường. Cậu đưa tất số tiền đổi lấy ba năm trong bộ
đội cho cha mẹ, chỉ để lại cho mình tám trăm nghìn, mua một vé tàu hoả rồi
đến thành phố G với người anh họ Đằng Vân.
Đằng Tuấn sùng bái Đằng Vân, cậu cảm thấy anh mình cực kỳ xuất sắc,
có Đằng Vân kiếm tiền ở ngoài, cuộc sống cả nhà họ đã đủ ăn đủ mặc
không phải lo nghĩ. Đằng Tuấn sở dĩ đến thành phố G, ngoài chuyện để anh
em nương tựa vào nhau, quan trọng hơn là muốn nhìn thấy cuộc sống ở
thành phố lớn. Mang tiếng là đã đi bộ đội, song thực tế số lần cậu ra khỏi
doanh trại chỉ cần dùng một bàn tay cũng đếm đủ.
Cậu tự biết mình không có văn hoá gì, không thể làm những việc nhẹ
nhàng. Những ngày ở Giang Nguyên, Đằng Tuấn nhận tiền lương trên dưới
một nghìn tệ, mỗi tuần trực đêm hai ngày, bốn ngày trực sáng, ở trong trung
cư dành cho người độc thân, cảm giác vô cùng mãn nguyện. Quan trọng
hơn là cậu đã gặp được cô gái đẹp nhất thế gian chính ở nơi này, lúc cô
cười, Đằng Tuấn thấy trong trái tim mù nhạc của mình như có một chú
chim nhỏ đang véo von ca hát. Cậu chưa bao giờ nghĩ cuộc sống như vậy
có gì không ổn, chỉ cần có thể khiến cậu vui vẻ như thế mãi, được ở bên cô
gái ấy mãi, thì có đổi bằng gì cậu cũng chẳng cần.
Đằng Tuấn rất chiều chuộng Hướng Dao, cậu cũng đối xử tốt với mọi
người xung quanh. Cậu trân trọng công việc này nên muốn làm thật tốt,
huống hồ Đằng Vân cũng dặn dò cậu, phải là người tốt, phấn đấu làm việc.