CHƯƠNG 15
M
ay mắn là trong Dưỡng đường thú hoang (cũng là nhà kho nhà tôi) lúc
nào cũng có mấy con hải âu.
Bo ̣n tôi thu na ̣p ADN của hải âu và biến hı̀nh dưới con mắt quan sát của
Tobias đâ ̣u trên rui nhà.
Trước đây tôi đã biến thành chim rồi. Mô ̣t con ó biển, nói cho ngay,
cũng là mô ̣t loa ̣i diều hâu.
Nhưng xét về mô ̣t số mă ̣t thı̀ hải âu khác lắm. Mô ̣t trong những cái khác
ấy là hải âu ăn thi ̣t, cá chết chứ không săn mồi. Vı̀ thế nên khi cả bo ̣n cất
cánh bay rào rào ra khỏi kho rơm thı̀ tôi chú ý đến những cái khác, cảm
thấy những điều khác. Trı́ óc hải âu của tôi không tı̀m kiếm chuô ̣t hay
những con vâ ̣t cha ̣y trên mă ̣t đất. Nó mở rô ̣ng hơn nhiều. Nó tı̀m kiếm bất
cứ cái gı̀ - bất cứ thứ gı̀ - có thể ăn đươ ̣c.
Cũng may là trı́ óc của hải âu khá gần với trı́ óc của những loài chim
khác mà cả bo ̣n trải qua, cho nên khá dễ dàng kiểm soát.
Tuy nhiên, mô ̣t khi đã nhâ ̣p vào trı́ óc hải âu, đứa nào cũng chăm chăm
phát hiê ̣n thức ăn.
“Ê! Coi kı̀a! Khoai tây chiên dưới đất kı̀a!”
“Chu choa! Nửa thanh socola bên ca ̣nh chiếc xe đó!”
“Ồ ồ hãy nhı̀n chiếc bánh mı̀ ke ̣p thi ̣t phı́a sau tiê ̣m McDonal kı̀a!”
Đôi khi ba ̣n phải chấp nhâ ̣n cái chương trı̀nh cơ bản đã cài đă ̣t trong óc
con vâ ̣t và sống chung với nó.
“Bãi biển kia rồi.” Jake nói trong lúc cả bo ̣n vỗ cánh bay vút lên rồi la ̣i
vỗ cánh.
Về mă ̣t nào đó thı̀ làm ó biển dễ hơn. Ít phải tâ ̣p trung phải đâ ̣p cánh
hơn nhiều.
Khi đã ra đến ngoài biển, ı́t ra bo ̣n tôi cũng có thể ngưng rà tı̀m thức ăn.
Hầu như là thế.
“Nè, có phải mô ̣t bao khoai tây chiên trôi ở đằng kia không nhı̉?”
Bo ̣n tôi bay thấp, chı̉ cách mă ̣t nước chừng ba bốn mét. Không như diều
hâu có thể cưỡi các luồng khı́ nóng lên tâ ̣n các đám mây.
Nhưng lúc này Tobias không bay cao hơn bo ̣n tôi bao nhiêu. Trên mă ̣t