CHƯƠNG 4
B
uổi sáng hôm sau, khi mă ̣t trời mo ̣c, tôi đã đứng bên suối nhỏ. Hàng
ngày, tôi uống nước ở đó. Những ngo ̣n cỏ, lá thông nhe ̣ trôi theo dòng
nước. Xa xa mă ̣t trời đang le lói nơi rừng cây.
<Từ dòng nước đã sinh ra chúng ta,> tôi nhúng móng trước xuống
nước. Buổi lễ ban mai bắt đầu.
<Từ ngọn cỏ đã nuôi lớn chúng ta,> tôi lùi la ̣i, dùng móng trước cà lên
chùm cỏ.
<Vı̀ niềm tự do đã đoàn kết chúng ta,> tôi dang tay.
<Chúng ta hướng đến các vı̀ sao,> tôi ngước cả bốn mắt về phı́a mă ̣t
trời.
Tôi thở dài. Nghe cứ vô nghı̃a làm sao ấy. Có bao giờ tôi tin vào các
nghi lễ đâu. Nếu ba ̣n là lı́nh nhỏ, ba ̣n bắt buô ̣c phải dự, chı̉ có thế. Anh
lı́nh trơn nào bỏ nghi lễ mà bi ̣ cấp trên phát hiê ̣n thı̀ xem như cả ngày điếc
tai và hàng tràng la mắng.
Mà giờ thı̀ tôi cách quê nhà hàng tı̉ dă ̣m. Sao tôi phải hành đô ̣ng như thể
tôi là mô ̣t anh lı́nh kỷ luâ ̣t nhı̉. Tôi chı̉ có mô ̣t mı̀nh giữa những sinh vâ ̣t la ̣.
Làm lễ hay không nào có ai để ý chứ?
Tôi cúi đầu. <Tự do là mục tiêu duy nhất của tôi. Nghı̃a vụ với nhân
dân là kim chı̉ nam, và lòng trung thành với Hoàng tử là niềm vinh dự.>
Tôi thấy do dư ̣. Tobias đã bay đến, đâ ̣u trên mô ̣t cành cây.
<Tiêu diê ̣t kẻ thù là lời thề thiêng liêng nhất trong đời.>
Tôi đứng thẳng người, chı̉nh la ̣i tư thế như sắp xung trâ ̣n. <Tôi, Aximili-
Esgarrouth-Isthill, lı́nh nhỏ Andalite, nguyê ̣n hiến dâng đời mı̀nh.>
Tôi cuô ̣n đuôi về phı́a trước, áp vào cổ, rồi thả xuống.
Đến lúc trầm tư. Người dự lễ phải nghı̃ la ̣i những lời thề và tự hỏi mı̀nh
đã làm đươ ̣c gı̀ để xứng đáng với lời thề.
Tôi nghı̃ về viê ̣c tiêu diê ̣t kẻ thù.
Tôi chưa làm đươ ̣c điều ấy. Kẻ thù của tôi có biết bao sức ma ̣nh, và tôi,
mô ̣t lı́nh nhỏ, sẽ chı̉ là mô ̣t miếng mồi ngon cho hắn.
Nhưng tôi có cần chi điều ấy. Tôi phải nghı̃ đến hắn. Kẻ thù đã sát ha ̣i
anh trai tôi. Không phải trên trâ ̣n tiền mà vào lúc anh đang tử thương.