tôi càng sáng hơn. Lông vũ đâm chı̉a ra qua da. Ngón tay tôi mo ̣c dài ra,
thon la ̣i và biến thành lông cánh.
Phu ̣p! Mă ̣t tôi nho ̣n ra. Răng, môi, mũi cằm của tôi phı̀nh ra nhễu nhê ̣u
như thể đươ ̣c đúc từ nhựa máttic dán kiếng và bi ̣ ai đó thoi cho mô ̣t đấm từ
phı́a sau.
Lớp da người mềm ma ̣i ở má và môi tôi trở nên cứng ngắc. Cái mỏ két
bư ̣ chảng và lố bi ̣ch của tôi đang thành hı̀nh. Nó mang màu móng tay của
mô ̣t ông cu ̣ già.
Nhỡn lực của két hổng bı̀ đươ ̣c với diều hâu, nhưng xi ̣n hơn mắt người
là cái chắc.
<Tu ̣i mı̀nh coi lòe loe ̣t ghê ha!> Tôi nói với đám ba ̣n bằng cách truyền ý
nghı̃.
<Ê, chui vô lồng le ̣ đi, chi ̣ lao công trở la ̣i thı̀ gay đó,> Cassie thúc
giu ̣c.
Ngay lúc đó, tôi cảm thấy trı́ não két sôi òng o ̣c trong bô ̣ não người của
tôi. Thiê ̣t là kỳ khôi. Tôi đã từng đấu tranh với trı́ não của những loài vâ ̣t
không biết gı̀ ngoài nỗi sơ ̣ hãi như chuô ̣t, hay chı̉ biết đến giết như nhê ̣n
sói. Tôi cũng đã từng đấu tranh với trı́ não vô cảm, giống như mô ̣t cỗ máy
của loài kiến, nhưng hiếm khi cảm nhâ ̣n đươ ̣c thứ gı̀ đó đươ ̣c coi là trı́
thông minh trong não những con vâ ̣t đó. Tôi đã từng biến thành khı̉ đô ̣t và
cá heo. Cả hai con vâ ̣t này đều là những loài vâ ̣t thông thái. Két không
thông thái kiểu đó nhưng chúng la ̣i có khả năng suy nghı̃. Chà chà, coi bô ̣
loài két cũng biết tư duy đây, hı̀nh như nó còn có những xúc cảm vươ ̣t ra
ngoài bản năng thông thường nữa…bây giờ tôi bắt đầu hiểu vı̀ sao nhỏ
Cassie la ̣i nổi điên khi thấy mấy con két bi ̣ đem ra mua vui rồi…
<Này. Những con chim này thông minh đấy,> tôi nói.
<Rất thông minh là đằng khác,> Cassie tán thành. <Thế mà la ̣i bi ̣ nhốt
trong mô ̣t chiếc lồng xấu xı́ và bi ̣ quấy nhiễu suốt ngày. Những chú chim
này lẽ ra phải đươ ̣c bay tự do trong rừng nhiê ̣t đới, chứ không phải bi ̣ nhốt
trong mô ̣t khu thương xá.>
<Thế không có nghı̃a là tu ̣i mı̀nh sẽ thả hết tất cả két trên đất nước này
đâu nhé,> Jake nhấn ma ̣nh. <Mo ̣i người rõ cả rồi phải không?>