trở lên căn buồng sát mái của bác ở tầng ba, nằm xuống giường rồi ngủ
thiếp đi.
Có lẽ một giờ đã trôi qua, bỗng một hồi chuông réo vang. Chuông reo
một thôi đều đều đến bảy, tám tiếng liền. Bác Sáclơ bật dậy khỏi giường.
Quanh bác
vẫn tĩnh mịch, một sự tĩnh mịch nặng nề khiến bác rùng
mình. Bác Sáclơ dấn tới hai bước nữa: chân bác bỗng vấp phải một cái ghế
đổ
vật dưới sàn gác. Và ngay lập tức bác quơ phải mấy đồ vật khác: một
cái ghế đẩu rồi một tấm bình phong. Bác lo lắng dò dẫm quay trở lại bên
vách, lần tìm núm điện và... bật đèn lên.
- Trời ! Bác ấp úng kêu lên, sao đến nông nỗi này !
Cơ thể ngài nam tước Hôtơrếch, ông chủ của bác, nằm sóng sượt giữa
phòng, ở giữa tủ gương và bàn.
Bác Sáclơ lúng túng. Bác ngây người ra, trợn mắt kinh hãi nhìn cảnh xáo
trộn trong phòng: mấy chiếc ghế tựa đổ lỏng chỏng, cây đèn bằng pha lê vỡ
tan tành, đồng hồ quả lắc nằm vật trên mặt đá hoa của lò sưởi. Toàn bộ
khung cảnh nói lên ở nơi đây vừa diễn ra một cuộc vật lộn dã man khủng
khiếp. Cán một con dao găm nhọn hoắt bằng thép sáng loé gần thi thể ngài
nam tước. Từ lưỡi dao máu đỏ nhỏ giọt xuống mặt thảm sàn gác. Một
vuông khăn tay dính máu vương trên mặt bàn.
Bác Sáclơ rú lên kinh hoàng: cái thi thể như gắng hết sức tàn ưỡn lên,
sau đó co rúm lại, giật mấy cái rồi im hẳn.
Bác cúi xuống. Từ một vết thương nhỏ ở cổ, máu đang tia ra loang đen
tấm thảm, vẻ kinh hãi khủng khiếp vẫn còn đọng lại trên nét mặt xác chết.
- Lạy Chúa
! Người ta đã giết chết ngài nam tước. Bác Sáclơ lắp bắp nói,
ngươi ta đã giết chết ngài nam tước rồi
!
Bỗng bác Sáclơ rùng mình nghĩ: biết đâu ở phòng bên cũng có án mạng,
biết đâu kẻ đã giết nam tước lại chẳng nhảy sang đâm chết cô Ăngtoanét
đang ngủ ở trong phòng ấy.
Bác Sáclơ đẩy cửa phòng của cô tuỳ tùng. Trong phòng vắng tanh. Bác
kết luận cô Ăngtoanét đã bị bắt cóc hoặc đã ra phố trước khi xảy ra án
mạng.