sau, chú bé đã khỏi đau như không có chuyện gì xảy ra cả. Chú vui vẻ
chơi đùa với vẹt Ca-ru-đô, còn cú Bum-ba thì thết chú đường phèn
và táo.
Lần ấy, một bác ngựa buồn rầu đi đến nhà bác sĩ. Ngựa khẽ
nói:
- La-ma, va-nôi, phì-phì, cù-cù!
Bác sĩ hiểu ngay, tiếng muông thú có nghĩa là:
"Thưa bác sĩ, tôi bị đau mắt, xin bác sĩ cho tôi cặp kính".
Từ lâu bác sĩ đã học nói tiếng muông thú. Bác sĩ bảo ngựa:
- Ca-pu-kí! Ca-nu-kí!
Tiếng muông thú có nghĩa là:
"Nào, hãy ngồi xuống đây."
Ngựa ngồi xuống. Bác sĩ đeo cho ngựa cặp kính. Thế là mắt
ngựa khỏi đau liền.
Ngựa lễ phép nói: "Cha-ca!" rồi vẫy đuôi, chạy ra ngoài phố.
"Cha-ca" tiếng muông thú tức là "cảm ơn".
Chẳng bao lâu, tất cả muông thú bị kém mắt đều có kính đeo.
Đấy là bác sĩ Ai-bô-lít đã cho chúng. Ngựa đeo kính. Bò đeo kính.
Mèo và chó đeo kính. Thậm chí mấy bác quạ già bay ra khỏi tổ cũng
đeo kính.
Chim muông đến chỗ bác sĩ ngày một đông.
Rùa, cáo, dê chạy đến. Đại bàng và sếu cũng bay đến.