hiện vào một giờ nhất định và bay rất cao.
Tôi quyết định giăng một cái bẫy trên không. Ý định của tôi là phải khai
thác cái thói rởm đời của bọn Đức, nói cho đúng hơn, là cái tính quy ước và
thủ cựu trong chiến thuật, để chúng tôi bay gặp chúng ở địa điểm trên dọc
đường xa sân bay chúng tôi. Đồng chí chỉ huy phê chuẩn kế hoạch.
Một buổi sáng đẹp trời, với thì giờ tính toán chuẩn xác, Gô-lu-bi-ép và
tôi cất cánh. Lấy xong độ cao, chúng tôi bay đến tuyến mặt trận, tuần tiễu
khu vực thường có bọn máy bay trinh sát địch qua lại.
Không phải chờ lâu, chúng tôi đã thấy xuất hiện trên trời, độ cao khoảng
bảy nghìn mét, bóng dáng quen thuộc của chiếc máy bay hai động cơ của
bọn Đức. Khi nó vượt qua tuyến mặt trận và bắt đầu bay vào đất chúng tôi,
biết chắc rằng nó không phát hiện được mình, chúng tôi nhanh chóng vòng
về phía tây và đuổi theo. Chúng tôi đuổi kịp nó trên không phận Rô-dốp-
ca.
Nhìn thấy những máy bay tiên kích ta sau lưng, bọn Đức hiểu ngay
chúng đã rơi vào bẫy và đổi hướng bay, hạ thấp độ cao để tìm cách lẩn
tránh chúng tôi. Nhưng đã muộn. Sau lần công kích đầu tiên, máy bay
chúng bốc lửa và sau lần thứ hai, máy bay chúng lao xuống, vỡ tan từng
mảnh. Từ hôm ấy, tiếng động cơ máy bay trinh sát địch không còn ầm ĩ trên
bầu trời Rô-dốp-ca nữa.
Vào tháng mười năm t943, những trận chiến đấu tiếp tục diễn ra dữ dội
hơn bao giờ hết trong khu vực Mê-li-tô-pôn, đặc biệt kịch liệt ở bên cánh
phải mặt trận, xung quanh Ban-sôi Tốc-mắc. Trung đoàn chúng tôi thay đổi
nhiều căn cứ trong thời kỳ này: khi thì để hiệp đồng với các lực lượng tiến
công vào Mê-li-tô-pôn, khi thì bảo đảm cho hoạt động tác chiến của những
người bạn cũ, những kỵ binh, trong những cuộc tiến công về hướng nhà ga
xe lửa Fri-sip. Rếch-ca-lốp và Clu-bốp dẫn tốp đi tiến công các đoàn quân
địch trong khi tôi và Gô-lu-bi-ép thường cất cánh đi săn lẻ.
Trong một cuộc di chuyển căn cứ đến một sân bay dã chiến mới, trung
đoàn trưởng bay trên chiếc Ut-2 với kỹ sư Cô-pi-lốp bị tai nạn khi hạ cánh.