rất nhiều, chỉ đáng tiếc là do không biết sự thật nên người ta đã đưa ra
những giả thuyết của mình về những bí ẩn có thể. Trong đó có giả thuyết về
một âm mưu có tổ chức nhằm đánh bại Liên Xô và ĐCS Liên Xô như một
âm mưu được hoạch định ở phương Tây và có sự tham gia của CIA cùng
như các điệp viên khác của nó. Tất cả những giả thuyết đó là sai lầm trầm
trọng nhất”.
Bằng cách này, mục tiêu chủ yếu của chiến tranh thông tin – tâm lý là
đưa các đối tượng tác động đến mức độ nguy hiểm mà họ không có khả
năng mô tả lại hoàn cảnh bằng những thuật ngữ có hệ thống và không thể
phát hiện ra độc chất đã thành công.
“… Các nhà Xô Viết học đã đạt được điều gì”
Bằng cách gây mất ổn định trong nhận thức và hấp dẫ mọi người bằng
một vở kịch chính trị lớn họ đã thực hiện được “giáo dục đám đông” đối
với dân chúng Liên Xô – tạm thời biến các nhân cách và những tập thể có
tổ chức thành một đám đông lớn hay nhiều đám đông có quy mô quốc gia.
Trong tình trạng đó mọi người đã để mất đi thái độ trách nhiệm vốn có của
cá nhân đối với những thay đổi cơ cấu cuộc sống đang căng lên bởi sự bất
định và nguy cơ to lớn. Không tranh luận, không nghi ngờ, không tính
trước lợi hay hại, phần lớn dân chúng đã thuận theo cuộc cách mạng mà
không thấy bất cứ sự cần thiết nào trong đó – đồng tình với một cuộc cách
mạng trong một xã hội đang ổn định. Điều này không phù hợp với tư duy
lành mạnh.
Những con người bình thường không bị cuốn vào đám đông đã có tư duy
bảo thủ tỉnh táo được đúc rút từ kinh nghiệm lịch sử và từ khả năng nhìn
thấy trước những hậu quả không mong đợi của những thay đổi. Những
phẩm chất đó nằm sâu trong tiềm thức và được vận hành tự động ở mức độ
linh cảm. Sự kiểm soát tiềm thức đó ở Liên Xô đã bị loại bỏ ra khỏi nhận
thức xã hội trong quá trình của cải tổ.
Trong giai đoạn cải tổ, nhận thức của những người dân Xô Viết đã phải
tiếp nhận rất nhiều hình tượng đẹp đẽ nhưng mơ hồ – dân chủ, xã hội công