BIẾT TA ĐÍCH THỰC LÀ AI - Trang 150

là điều đó không có hiệu quả đối với những mệnh đế của y. Phương
pháp này có thể không làm hài lòng người khác - y sẽ không cảm thấy
rằng chúng ta đang dạy y triết học - nhưng nó sẽ là phương pháp chính
xác tuyệt đối duy nhất. Các mệnh đề của tôi được giải thích theo cách
này: kẻ nào hiểu tôi cuối cùng sẽ nhận ra y không có giác quan, khi y
đã trèo ra qua các giác quan, trên giác quan, qua giác quan. (Ấy là nói y
phải ném cái thang đi, sau khi đã leo lên.) Y phải vượt qua những mệnh
đề này; sau đó y sẽ thấy thế giới đúng. Biết thì thưa thốt, không biết thì
dựa cột mà nghe.” Đây là thời điểm then chốt cho mọi triết gia kinh
viện duy trì sự thinh lặng và đưa môn học lên tầng mức trầm tư thuần
túy tương tự như kiểu hành thiền trong Thiền tông. Nhưng ngay cả
Wittgenstein cũng phải tiếp tục nói và viết, vì một triết gia còn làm sao
khác được để chứng tỏ mình đang làm việc mà không phải chỉ trốn
việc? (Đoạn trên trích từ bản dịch tiếng Anh của Tractatus, Routledge
& Kegan Paul xuất bản tại London, năm 1929. Các tiết đoạn 6.53,6.54,
và 7, tr. 187-89). (TG.)

[75]

Cấu tạo từ tiếng Hy Lạp enantios (đối lập)dromos (quá

trình liên tục), một nguyên lý của Carl Gustav Jung (1875-1961), nhà
tâm lý học người Thụy Sĩ. Theo nguyên lý này, sự phát triển bùng nổ
của bất cứ lực lượng nào chắc chắn cũng sẽ làm nảy sinh lực lượng đối
lập với nó.

[76]

James Broughton (1913-1999): nhà thơ Mỹ.

[77]

Trong The Bard and the Harper, James Broughton và Joel

Andrews ghi lại. Đĩa than-1013, Musical Engineering Associates,
Sausalito, California, sản xuất năm 1965. (TG.)

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.