Tập đoàn quân 18 chuyến sang truy kích, kéo chính diện quay lên Tây –
Bắc. Và, tình hình đó có lợi cho cuộc tiến công của tập đoàn quân 56. Ngày
16 tháng Giêng, tập đoàn quân 56 bắt đầu tiến công địch và sau bảy ngày
chiến đấu quyết liệt đã chọc thủng được tuyến phòng ngự của chúng trên
hướng Cra-xnô-đa, rồi tiến đến các cửa ngõ tiến vào Cra-xnô-đa và tới sông
Cu-ban.
Tập đoàn quân 47 giáng đòn đột kích chủ yếu vào Crưm-xcai-a nhưng
không thu được kết quả. Và, ngay trong dải tiến công của tập đoàn quân 56,
sức kháng sự của địch cũng ngày một tăng lên và chẳng bao lâu trở nên khó
mà vượt qua được Tương quan lực lượng cân bằng, thậm chí có chiều hướng
thay đổi có lợi cho địch.
Ở đây các quy luật biện chứng tất nhiên của chiến tranh đã tự thân nổi lên:
tình hình nguy ngập chung của quân đội phát-xít Đức, nhất là ở Ba-tai-xcơ
và Rô-xtôp, đã buộc bộ chỉ huy của chúng phải sử dụng mọi khả năng để
củng cố phòng ngự trên các hướng Cra-xnô-đa và Nô-vô-rô-xi-xcơ và dù bất
cứ giá nào cũng phải giữ cho bằng được con đường rút về Đôn-bát và Crưm.
Vì, trong lúc Cụm Biển Đen đang chiến đấu tại những cửa ngõ tiến vào
Cra-xnô-đa thì tập đoàn quân cận vệ 2 và các tập đoàn quân 51, 28 của
phương diện quân Nam đã ở cách Ba-tai-xcơ khoảng 8 ki-lô-mét, còn bộ đội
Cụm phía Bắc của phương diện quân Da-cáp-ca-dơ đã tiến tới khu vực Pê-
xtra-nô-ô-côp-xcôi-ê, Crô-pôt-kín, Ác-ma-vi. Như vậy là đã hình thành tình
thế chứa đầy nguy cơ của một “Xta-lin-grát” mới đối với quân địch. Nên tất
nhiên, bọn chúng đã cố tìm cách thoát khỏi cảnh đó và có các biện pháp đối
phó lại.
Ngày 23 tháng Giêng, Bộ Tổng tư lệnh tối cao Liên Xô đã: ra một chỉ thị
đặc biệt, chỉ cho phương diện quân Nam thấy rõ vai trò chủ yếu của mình
trong việc bao vây quân địch ở Bắc Cáp ca-dơ.
Chỉ thị viết: “việc bộ đội ta chiếm được Ba-tai-xcơ có một ý nghĩa lịch sử
to lớn. Chiếm được Ba-tai-xcơ, chúng ta sẽ vây kín quân địch ở Bắc Cáp-ca-
dơ, không cho 24 sư đoàn Đức và Ru-ma-ni rút về khu vực Rô-xtốp, Ta-gan-
rô-gơ, Đôn-bát.