Man-se-xtơ. Ông ta chia các nhà và phố làm ba hạng và có được tỷ số tử vong như sau:
Phố
Nhà
Tử vong
Hạng I
Hạng I
1 trên 51
" I
" II
1 " 45
" I
" III
1 " 36
" II
" I
1 " 55
" II
" II
1 " 38
" II
" III
1 " 35
Hạng III
Hạng I
thiếu con số
" III
" II
1 trên 35
" III
" II
1 " 25
Qua nhiều bản thống kê khác do Hôm-le trình bày ta thấy rõ rằng so với ở những phố hạng
I, tỷ số tử vong ở những phố hạng II cao hơn 18 phần trăm, ở những phố hạng III cao hơn 68
phần trăm; so với ở những nhà hạng I, tỷ số tử vong ở những nhà hạng II cao hơn 31 phần
trăm, ở những nhà hạng III cao hơn 78 phần trăm; trong những phố bẩn thỉu sau khi được
quét dọn thì tỷ số tử vong giảm đi 25 phần trăm. Ông ta kết luận bản báo cáo bằng những lời
như sau, những lời rất thẳng thắn đối với người tư sản Anh:
"Khi chúng ta thấy có những phố có tỷ số tử vong cao gấp bốn lần những phố khác, và có những hạng phố nọ cao gấp
đôi những hạng phố kia; khi chúng ta thấy trong những phố tồi tàn, tỷ lệ tử vong có thể nói là luôn luôn cao, mà trong những
phố tốt hơn thì lại luôn luôn thấp, thì chúng ta không thể không rút ra kết luận rằng đông đảo bạn đồng nghiệp của chúng ta,
hàng trăm người láng giềng gần gũi nhất của chúng ta hằng năm bị sát hại (destroyed) vì thiếu những biện pháp dự phòng
sơ đẳng nhất".
Trong bản báo cáo về tình hình vệ sinh của giai cấp công nhân cũng có những tài liệu
chứng minh sự thật như thế. Ở Li-vớc-pun, năm 1840 tuổi thọ trung bình trong các giai cấp