Tỷ số tử vong trên 10 000 người
Dưới
5
tuổi
Từ
5
đến
19
Từ
20
đến
30
Từ
40
đến
59
Từ
60
đến
69
Từ
70
đến
79
Từ
80
đến
89
Từ
90
đến
99
Từ
100
và
trên
100
Ở lãnh địa Rớt-len, vùng nông nghiệp trong
lành...
2
865
891
1
275
1
299
1
189
1
428
938
112
3
Ở lãnh địa Ét-xếch, vùng nông nghiệp đất lầy
3
159
1
110
1
526
1
413
965
1
019
630
177
3
Ở thành phố Các-lây-lơ trong những năm 1779 -
1787, trước khi xuất hiện các công xưởng
4
408
911
1
006
1
201
940
826
533
153
22
Ở thành phố Các-lây-lơ sau khi xuất hiện các công
xưởng
4
738
930
1
261
1
134
677
727
452
80
1
Ở thành phố công xưởng Pre-xtơn
4
947
1
136
1
379
1
114
553
532
298
38
3
Ở thành phố công xưởng Lít-xơ
5
286
927
1
228
1
198
593
512
225
29
2
Uyết-đơ đã trích ở bản báo cáo năm 1832 của tiểu ban nghị viện về công xưởng, trong quyển
sách của ông: "Lịch sử giai cấp trung gian và giai cấp công nhân" (xuất bản lần thứ ba, Luân
Đôn, 1835).
Ngoài những bệnh tật ấy là hậu quả tất nhiên của tình hình giai cấp nghèo khổ nhất bị áp
bức và lợi ích của họ bị coi thường, còn có những nguyên nhân khác làm tỷ số tử vong của
trẻ con tăng lên. Trong nhiều gia đình, người mẹ cũng đi làm ở ngoài như người cha, hậu quả
là con cái bị bỏ vơ vất, hoặc là bị nhốt một mình trong nhà hoặc là bị giao phó cho những
người giữ trẻ thuê. Cho nên không lấy gì làm lạ nếu hàng trăm đứa trẻ ấy chết vì đủ mọi thứ
tai nạn. Không ở đâu có nhiều trẻ con chết vì xe chẹt, vì ngựa giẫm, không ở đâu có nhiều trẻ
con bị chết đuối hoặc chết cháy bằng ở những thành phố lớn của Anh. Đặc biệt là trẻ con