kiến thức cần thiết để lựa chọn cho đúng đắn. Không một nơi nào có giáo dục cưỡng bách;
trong công xưởng, như chúng ta sẽ thấy, sự cưỡng bách giáo dục chỉ trên danh nghĩa, và
trong kỳ họp năm 1843, khi chính phủ muốn đem thực hành việc cưỡng bách trên danh nghĩa
ấy thì giai cấp tư sản công nghiệp đã cực lực phản đối, mặc dầu công nhân tỏ ra kiên quyết
tán thành việc cưỡng bách đi học. Ngoài ra một số rất đông trẻ con làm việc suốt tuần lễ
trong công xưởng hoặc ở nhà, nên cũng không thể đi học được. Còn các trường buổi tối dành
cho những người bận làm việc ban ngày, thì hầu như chẳng có ai học, và chẳng đem lại ích
lợi gì. Đòi hỏi những công nhân trẻ tuổi đã làm kiệt sức suốt mười hai giờ liền, tối đến lại đi
học từ tám giờ đến mười giờ, thì quả là quá đáng. Những ai đi học thì phần nhiều đều ngủ
ngay trong giờ học, điều này đã được hàng trăm chứng cớ trong bản "Báo cáo của tiểu ban
điều tra về lao động trẻ em" xác nhận. Đành rằng người ta cũng đã tổ chức những trường học
ngày chủ nhật, nhưng cũng rất thiếu thày, và chỉ có thể có lợi đôi chút đối với những người
đã theo học ở trường ban ngày. Thời gian cách quãng từ chủ nhật này đến chủ nhật sau quá
dài, khiến một đứa trẻ ở trình độ rất thấp, khi học bài sau không khỏi quên mất bài trước học
cách đấy một tuần. "Báo cáo của tiểu ban điều tra về lao động trẻ em" có hàng nghìn dẫn
chứng về điều này và chính tiểu ban đã tuyên bố dứt khoát rằng cả trường học ban ngày lẫn
trường học ngày chủ nhật đều không thể đáp ứng, dù chỉ phần nhỏ, yêu cầu của đất nước.
Báo cáo ấy nêu lên những dẫn chứng về tình trạng dốt nát trong giai cấp lao động Anh, một
tình trạng mà người ta không ngờ là có ngay cả ở những nước như Tây Ban Nha hoặc I-ta-li-
a. Nhưng cũng không thể nào khác được. Sự học vấn của công nhân ít hứa hẹn điều tốt lành
cho giai cấp tư sản, ngược lại có thể gây ra cho họ
những nỗi lo sợ hết sức. Trong toàn bộ ngân sách khổng lồ 55 triệu pao stéc-linh, chính phủ
chỉ dành một khoản kinh phí rất nhỏ là 4 vạn pao xtéc-linh cho việc giáo dục quốc dân. Và
nếu không có lòng cuồng tín của các giáo phái - chí ít thì những cái hại mà nó gây ra cũng
không kém những cái lợi mà nó đem lại ở một nơi nào đó - thì những chi phí về giáo dục có
lẽ còn hơn nữa. Nhưng giáo hội quốc giáo Anh đã lập ra các National Schools
1*
của họ, và
mỗi giáo phái cũng đều có những trường học của mình với mục đích duy nhất là để nắm giữ
lấy con em những người đồng đạo, và nếu có thể thì phỗng lấy của các giáo phái khác một
linh hồn thơ dại đáng thương. Kết quả là tôn giáo, và chính cái mặt vô hiệu quả nhất của tôn
giáo - tức là bác bỏ giáo lý của những người có tôn giáo khác - đã trở thành môn học quan
trọng nhất, đầu óc trẻ con bị nhồi nhét đầy những giáo lý khó hiểu và những điều phiền toái
về thần học, lòng thù hằn giáo phái và lòng cuồng tín mê muội được bồi dưỡng từ tuổi thơ
ấu, còn sự đào luyện trí lực, tinh thần và đạo đức thì bị bỏ lơ một cách trắng trợn. Người lao
động đã nhiều lần đòi hỏi nghị viện xây dựng một hệ giáo dục quốc dân hoàn toàn trần tục,
còn việc chăm lo đến giáo dục tôn giáo thì dành cho giới tu hành của từng giáo phái, nhưng
cho đến nay vẫn chưa có một bộ nào đồng ý thi hành biện pháp như thế. Điều đó hoàn toàn
dễ hiểu, bởi vì bộ trưởng là tôi tớ ngoan ngoãn của giai cấp tư sản, mà giai cấp tư sản thì chia
thành vô số giáo phái, mà giáo phái nào cũng chỉ chịu để cho công nhân được hưởng một nền