thiên nhiên, chưa nói đến hoạt động tinh thần, một thứ lao động như vậy làm sao không hạ
con người xuống hàng súc vật? Thế là người công nhân lại phải chọn lấy một trong hai con
đường: hoặc là phục tùng số phận, trở thành "người công nhân tốt", "trung thành" phục vụ lợi
ích của người tư sản - và như vậy chắc chắn anh ta trở thành con vật không có lý tính - hoặc
là phản kháng, đem hết sức bảo vệ nhân phẩm của mình, và họ chỉ có thể làm được thế trong
cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản.
Tất cả những nguyên nhân ấy đã dẫn đến tình trạng truỵ lạc đạo đức nghiêm trọng trong
giai cấp công nhân; ngoài ra lại còn có một nguyên nhân nữa làm cho tình trạng truỵ lạc càng
lan rộng thêm và lên đến cực độ: đó là sự tập trung nhân khẩu. Các nhà văn tư sản Anh kêu
gào điên dại về ảnh hưởng đồi phong bại tục của các thành phố lớn, những Giê-rê-mi ấy than
vãn ngược đời không phải về cảnh huỷ hoại của thành phố, mà về cảnh phồn vinh của nó.
Việc tỉnh trưởng A-li-xơn hầu như đổ tội tất cả cho nguyên nhân ấy, và bác sĩ Vô-ôn tác giả
quyển sách "Thời đại các thành phố lớn" lại còn kết tội nặng hơn thế nữa. Điều đó hoàn toàn
dễ hiểu. Những nguyên nhân khác có tác dụng phá hoại đến thân thể và tinh thần của người
lao động đều liên quan hết sức mật thiết với quyền lợi của giai cấp có của. Nếu những tác giả
ấy thừa nhận nguyên nhân chính là sự nghèo khổ, sự không tin ở ngày mai, lao động quá sức
dưới cái gậy, thì mọi người, và ngay cả bản thân họ, sẽ phải tự bảo mình rằng: nếu thế thì
chúng ta hãy cho người nghèo có tài sản, hãy bảo đảm phương tiện sinh sống cho họ, hãy ban
hành những đạo luật chống lao động quá sức; nhưng đó là điều mà giai cấp tư sản không thể
đồng ý được. Nhưng mà, những thành phố lớn cứ tự động phát triển, mọi người đến ở đấy
cũng hoàn toàn do tự nguyện; không phải trong tức khắc đã có được kết luận cho rằng những
thành phố lớn được tạo nên chỉ là do công nghiệp và do giai cấp tư sản dựa vào công nghiệp
mà làm giàu, cho nên giai cấp thống trị càng dễ quy mọi tai ương cho cái nguyên nhân có vẻ
như không thể loại trừ được ấy. Thật ra thì những thành phố lớn chỉ tạo ra những điều kiện
làm cho các tội ác đã tồn tại từ trước dù sao cũng ở trạng thái manh nha được phát triển
nhanh chóng và đầy đủ hơn mà thôi. A-li-xơn ít ra còn đủ nhân đạo để công nhận điều ấy:
ông ta không thuộc loại tư sản công nghiệp - đảng viên Đảng tự do hoàn toàn thành thục, mà
chỉ là một người tư sản - đảng viên đảng To-ri nửa thành thục cho nên mắt ông còn có lúc
nhìn thấy
được rõ những sự vật mà một người tư sản thực thụ hoàn toàn không nhìn thấy. Hãy nghe
ông ta nói:
"Chính các thành phố lớn là nơi sức cám dỗ của những thói xấu và thói dâm đãng đã dăng đầy lưới bẫy, chính là nơi tội
ác được khuyến khích bởi hy vọng sẽ không bị trừng phạt, còn tính lười biếng được khuyến khích phát triển bởi nhiều
gương xấu. Chính tại đây, những trung tâm truỵ lạc lớn này, là nơi những kẻ hư hỏng, những phường vô lại trốn tránh cuộc
sống giản dị ở nông thôn đã đến ở; chính ở đây chúng có thể tìm được những nạn nhân cho những hành động hèn hạ của
chúng và những việc mạo hiểm của chúng sẽ được đền bù bằng sự kiếm chác dễ dàng. Ở đây đức hạnh bị vùi dập và dìm
trong bóng tối, thói xấu vì khó bị khám phá nên nảy nở sum suê và lối sống phóng đãng được khuyến khích vì vừa với túi
tiền. Người nào dạo chơi ban đêm trong khu phố Xanh-Gin, trong các phố chật hẹp, đông đúc ở Điu-blin, trong các khu phố
nghèo ở Gla-xgô, thì người đó sẽ tìm thấy đủ bằng chứng để xác nhận những lời nói đó và sẽ phải ngạc nhiên không phải vì