gia cách mạng. Và nói chung, cuộc sống riêng và tình trạng sức khoẻ của
Stalin là điều được giữ bí mật.
Trước chiến tranh, Stalin nói chung khoẻ mạnh. Sau chiến tranh, ông bắt
đầu ốm đau - huyết áp cao. Bắt đầu từ năm 1945, mỗi năm ông ở miền
Nam 3 - 4 tháng, thường trở về Matxcơva gần vào ngày 21/12 - ngày sinh
của ông. Ở miền Nam, xa cách mọi người, ông chữa bệnh và củng cố sức
khoẻ.
Mặc dù trong những năm cuối đời, Stalin có đau ốm, nhưng trông ông
vẫn khoẻ mạnh, không có biểu hiện gì báo hiệu một sự suy yếu đột ngột.
Khi Stalin bị ốm, ông không cho ai đến thăm. Khi Stalin bị nhồi máu cơ
tim lần thứ hai, Beria muốn đến thăm, nhưng Stalin không cho, ông không
chỉ không cần đến một sự an ủi, cảm thông mang tính chất thuần tuý con
người, mà còn không muốn cho ai nhìn thấy mình đau ốm. Bệnh tình của
ông cũng là một bí mật quốc gia.
Nguyên Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Hungari Matiash Rakoshi, nhiều
năm sống ở Liên Xô, kể rằng Stalin thường ăn cơm tối với các ủy viên Bộ
Chính trị.
"Thức ăn và đồ uống bày trên bàn. Mỗi người, kể cả Stalin, tự lấy thức
ăn cho mình. Buổi tối, Stalin cũng thỉnh thoảng uống rượu. Ông thường
uống rượu vang đỏ hoặc sâm-panh trong một cái cốc dài và cao, không phải
cốc dành cho sâm-panh, nhấm nháp từng ngụm nhỏ, giống như khi hút
thuốc, ông dành cho việc quấn điếu "Herzegorina" hoặc nhồi thuốc vào tẩu
và rít từng hơi chậm và ngắn nhiều thời gian hơn là cho bản thân việc hút
thuốc . . .
Không khí trong các bữa cơm tối đó là thoải mái, mọi người kể chuyện
tiếu lâm trêu chọc nhau và cùng cười...
Khi đã hơn 3 giờ sáng, Stalin đi ra ngoài phòng, tôi nói với các ủy viên
Bộ Chính trị rằng đồng chí Stalin đã 73 tuổi, liệu có nên kéo dài các buổi
tiệc như thế này đến tận đêm khuya hay không, thì các đồng chí bảo tôi cứ
yên tâm, Stalin còn khoẻ lắm, và rất biết chừng mực. Quả thật, thấy Stalin
quay lại ngồi vào bàn, nhưng một lúc sau lại đứng dậy, và mọi người cũng
giải tán".