một đứa trẻ sơ sinh về ranh giới bình thường giữa bản thân của nó với
người mẹ, dù đó là hai nhân tách biệt. Việc cộng sinh với người mẹ và đồng
hành với việc chiều theo sự cộng sinh là rất cần thiết cho quá trình phát
triển bản ngã bình thường. Đó là giai đoạn đầu của sự am hiểu cuộc sống
khi Mahler quan sát trẻ phát triển trong khoảng tháng thứ hai.
Những đóng góp khác về lý luận được xem như là những ví dụ điển hình
về sự phát triển của tâm lý học bản ngã. Jacobson (1964, 1971) đã bổ sung
một số quan điểm về tâm lý học bản ngã của Freud để hình thành nên học
thuyết về sự chán nản, và đưa ra giải pháp cho việc điều trị chứng nhiễu
tâm, cùng những biể hiện cho thấy có nguy cơ mắc bệnh. Ngoài ra,
Kernberg (1971) và Kohut (1971) đã giải quyết tình trạng rối loạn nằm giữa
chứng nhiễu tâm chuyển đổi truyền thống theo học thuyết của Freud và
chứng rối loạn tâm thần. Blanck and Blanck (1974) đưa ra những giải pháp
cụ thể về việc mở rộng những kỹ thuật phân tích bản ngã, để chữa căn bệnh
này ở mức độ mất ổn định một cách nghiêm trọng hơn.