trước khi bắt đầu sự hướng dẫn, bắt các đối tượng này lựa chọn thẻ lúc bắt
đầu và chấm dứt thời kỳ 60 ngày.
Trước khi hướng dẫn, các đối tượng đối chứng cho thấy mối tương quan
lý tưởng – bản thân trung bình là 0,58; các đối tượng thực nghiệm có sự
tương quan bằng 0. Sau khi hướng dẫn, các đối tượng thực nghiệm có sự
tương quan trung bình là 0,34, gia tăng đáng kể đối với sự tương quan
trước khi hướng dẫn là 0, và sự tương quan tiếp theo chỉ giảm nhẹ còn 0,31.
Các đối tượng đối chứng cho thấy không có sự thay đổi nào trong tương
quan lý tưởng – bản thân trong cùng thời kỳ, và các thân chủ chờ 60 ngày
trước khi hướng dẫn cho thấy không có sự thay đổi nào trong thời kỳ tiền
hướng dẫn. Do đó, Butler và Haigh chứng minh rằng (1) thân chủ ít cảm
thấy hài lòng với chính mình (ít quan tâm đến chính mình hơn) trước khi trị
liệu hơn những người không phải là thân chủ; (2) liệu pháp gia tăng sự
tương quan lý tưởng – bản thân khi không có sự thay đổi nào trong kiểm
soát; và (3) sự tương quan có khuynh hướng vẫn duy trì trong thời kỳ tiếp
theo.
Các kết quả nghiên cứu của Butler và Haigh (1954) đã được một số cuộc
điều tra khác xác nhận (thí dụ xem Dymont 1953, 1954; Rudikoff 1954; B.
Smith 1962; G.M Smith 1958). Tuy nhiên, một nghiên cứu gồm các đối
tượng bị bệnh tâm thần phân liệt không đem lại sự khích lệ nào (Kiesler,
Mathieu và Klein 1967). Sự đánh giá loại Q trong cuộc nghiên cứu này là
sự đánh giá tính phù hợp giữa chuyên viên và bản thân. Trong đó, mỗi loại
bản thân của đối tượng được làm cho tương quan với loại tiêu chuẩn tiêu
biểu cho người lý tưởng được các nhà tâm lý học lâm sàng đánh giá. Cả sự
đánh giá chuyên viên – bản thân và tiêu chuẩn đánh giá sự điều chỉnh Q lần
thứ hai không thấy có sự thay đổi đối với liệu pháp hay sự thay đổi chênh
lệch đối với sự kiểm soát và các nhóm trị liệu.
Sự chấp nhận bản thân và người khác. Rogers đã mặc nhiên công nhận
sự quan tâm tích cực và lòng tự trọng có liên quan đến sự quan tâm và chấp
nhận người khác. Như một khía cạnh của nguyên lý cơ bản, ông đã đưa ra