LOẠI HÌNH HỌC BA CHIỀU
Nghiên cứu của Eysenck về các phương diện căn bản của nhân cách đã
làm phát sinh và phù hợp với trường phái Luân Đôn hay Anh quốc (chuyên
về lĩnh vực phân tích nhân tố) nhưng đối lập với trường phái Mỹ. Trường
phái Mỹ được Cattell và Guilford minh họa bằng ví dụ cụ thể tập trung vào
mức độ tính tình. Còn trường phái Luân Đôn lại nghiên cứu những mức độ
rộng nhất của cấu trúc như loại hình. Phương pháp Anh trong phân tích
nhân tố cơ bản nảy sinh từ tác phẩm của Charles Spearman và trường hợp
của Eysenck thì nảy sinh từ tác phẩm của Cyril Burt (người đã tiến hành
một nghiên cứu đầu tiên về phân tích nhân tố loại hình nhân cách trẻ em).
Nghiên cứu về nhân tố đầu tiên của Eysenck (1947) liên quan đến việc
phân loại các chứng bệnh tâm thần với 39 biến số trên 700 quân nhân bị
chứng nhiễu tâm. Việc phân loại này được đặt trong môi trường tương quan
lẫn nhau và được phân tích nhân tố, có sử dụng sự xoay vòng trực giao để
loại các nhân tố không tương quan lẫn nhau. Eysenck đã tập trung vào hai
nhân tố đầu tiên là những nhân tố quan trọng và tổng quát nhất trong
nghiên cứu đó. Nhân tố đầu tiên được đặc trưng bởi cấu trúc không tốt, phụ
thuộc, bất thường trước khi phát bệnh và cơ bắp không rắn chắc. Dường
như nhân tố đầu tiên là nhân tố tổng quát phản ánh sự ổn định về mặt cảm
xúc và Eysenck đã dùng thuật ngữ chứng nhiễu tâm để biểu thị cho nhân tố
đó đồng thời miêu tả thái cực không ổn định hoặc cao hơn. Điểm cuối của
một chuỗi liên tục có hai thái cực sự ổn định. Ở một thái cực, nhân tố thứ
hai đã tạo nên đặc điểm của những bệnh nhân có biểu hiện những triệu
chứng biến đổi của bệnh cuồng loạn (ví dụ như chứng liệt cổ điển “bao tay”
của một bàn tay mà không có một căn cứ nào về mặt sinh học) và bất
thường về tình dục. Ở một thái cực khác, bệnh nhân lại có những biểu hiện
như ám ảnh, buồn rầu và lo âu nhiều. Sử dụng thuật ngữ về tâm thần học,
Eysenck đã gọi thái cực đầu tiên (cực cao) là chứng cuồng loạn và thái cực
ngược lại là trạng thái dysthymia (nghĩa là sự rối loạn tâm tính). Tổng quát
hơn thì có thể dùng trong nhân cách bình thường cũng như không bình
thường, nhân tố thứ hai là sự hướng ngoại.