Hành vi tình dục
Eysenck (1972) đã áp dụng hệ thống ba chiều vào nghiên cứu thái độ
tình dục và hành vi tình dục. Công trình nghiên cứu về hành vi tình dục là
mối quan tâm đặc biệt trong việc chứng minh khả năng ứng dụng rộng rãi
những chiều thuộc loại hình học. Ông báo cáo một nghiên cứu liên quan
đến 400 nam về 400 nữ sinh viên độc thân và hầu hết là dưới 21 tuổi. Mỗi
sinh viên phải hoàn thành bảng câu hỏi đánh giá mức độ P (chứng nhiễu
tâm). E và N, một bảng tóm tắt về các thái độ tình dục và một bảng tóm tắt
giải quyết các hành vi tình dục. Hai bảng tóm tắt này được phân tích để đưa
ra tỷ lệ phần trăm những nam và nữ sinh viên trả lời “đồng ý” với mỗi câu
hỏi trong bảng. Kết quả cho thấy nam giới thích sách báo khiêu dâm, các
cuộc truy hoan, thích xem phim ảnh khiêu dâm hơn là nữ giới và hợp pháp
hóa nạn mại dâm hơn. Nam giới cũng có khuynh hướng quan hệ trước hôn
nhân sự chung chạ tình dục bừa bãi hơn nữ giới. Tuy nhiên, nữ giới thể
hiện sự thỏa mãn trong cuộc sống tình dục của họ nhiều hơn, có dấu hiệu
phạm tội thường xuyên hơn đối với những thực nghiệm về tình dục.
Mối quan hệ giữa thái độ và hành vi tình dục đối với E, N, P là mối quan
tâm đặc biệt và có ý nghĩa quan trọng nhất. Đó là những kết quả chỉ ra rằng
những kích cỡ thuộc loại hình học chủ yếu này có liên quan đến hành vi
tình dục. Eysenck đưa ra kết luận rằng người hướng nội và hướng ngoại
đều có những nhận xét, đánh giá về tình dục rất tốt. Tuy nhiên, người
hướng ngoại không khó khăn lắm trong việc tiếp cận bạn khác giới và hoàn
toàn không có chút gì “e ngại”. Trong khi đó, người hướng nội lại dè dặt
hơn và không dễ dàng thiết lập những mối quan hệ xã hội cần thiết. Đối với
chứng nhiễu tâm, người có chỉ số N cao hơn thì khá e dè và có mức độ
hưng phấn tình dục cũng như ức chế tình dục cao nhưng mức độ thỏa mãn
tình dục lại thấp. Người có chỉ số P cao có xu hướng chống lại các hoạt
động tình dục cũng như quan hệ tình dục bừa bãi. Loại người này cũng
phần nào hơi dè dặt và biết kiềm chế. Nghiên cứu về hành vi tình dục đã
được phát triển và những cơ sở nghiên cứu dựa trên yếu lố di truyền đã