14
TỔNG QUAN VỀ HỌC THUYẾT NHÂN CÁCH
Sự tiến bộ của khoa học thường đi theo một con đường chậm chạp, buồn
tẻ, và ảnh hưởng của các triết gia vĩ đại với những học thuyết vĩ đại được
mở rộng ra ngoài cả cuộc đời của các triết gia lẫn tính hữu dụng trong các
học thuyết của họ. Khi Hippocrates mất (năm 370 TCN), ông đã để lại 87
luận thuyết của mình, tạo thành học thuyết y học quan trọng đầu tiên. Dù
sâu sắc ở một số khía cạnh, nhưng công trình của ông phần lớn thiếu độ
chính xác và chiều sâu (một phần do lệnh cấm mổ xẻ con người). Mãi tới
thế kỷ thứ II SCN, thầy thuốc và triết gia y học Galen mới tập họp ban
nghiên cứu y học lại với nhau (có từ thời Hippocrates) để cập nhật kiến
thức và học thuyết y học. Ông có thể định vị trí óc não – Aristole đã định vị
trí óc ở tim – và ông đã vạch ra sự khác biệt quan trọng giữa các dây thần
kinh cảm giác và vận động. Galen tạo nên một học thuyết y học không đầy
đủ, không được xác minh và không chính xác. Nhưng học thuyết của ông
được nhiều người coi là tín điều y học trong 1300 năm sau khi ông mất.
Trên thực tế, mãi tới khi Andreas Vesalius xuất bản Sự chế tạo cơ thể con
người (De Fabrica Corporis Humani) các ý tưởng của Galen mới bắt đầu
mất đi ảnh hưởng của chúng. Vào năm 1543, Vesalius đã nghiên cứu cơ thể
con người rất chi tiết, kỹ lưỡng, thực hành mổ xẻ cẩn thận và trên quy mô
lớn, đạt được hiểu biết chính xác về thuật mổ xẻ con người nhiều hơn
những người đi trước. Cũng chính trong năm có tính quyết định đó
Copernicus đã công bố học thuyết nhật tâm, phát biểu rằng Trái đất không
phải là trung tâm của vũ trụ. Sau khi được xác minh, học thuyết của ông đã
bác bỏ học thuyết địa tâm (được cho là chân lý trong nhiều thế kỷ)
Căn cứ vào những ví dụ này ta thấy khoa học tiến triển chậm chạp như
thế nào. Các học thuyết tâm lý chính thức về nhân cách, và sự nghiên cứu
được phối hợp với chúng cũng đã tiến hành trong gần một thế kỷ. Năm
1900, khi Sigmund Freud xuất bản quyển sách đầu tiên, Giải thích các giấc
mơ ông không có sẵn các học thuyết tâm lý về nhân cách để nhờ đến. Điều
này không có nghĩa là học thuyết của Freud được phát triển từ khoảng